Người Pháo Thủ Thành Carroll: Trung Đoàn 56 Đầu Hàng VC, Anh Từ Chối
GIAO CHỈ, SAN JOSEĐaị úy pháo thủ Nguyễn Văn Tâm; ông bà H.O. 5 (1991); Đoạn cuối chuyện tình; cuộc chiến tiếp diễn.
Đây là bài thứ 6 của loạt bài Quảng Trị, mùa hè 72, viết về câu chuyện đầu hàng bi thảm của trung đoàn 56 Bộ binh tại Camp Carroll.
Khi Cố vấn bỏ Trung đoàn :
Một trong những quy luật quan trọng là cố vấn không được bỏ đơn vị tại chiến trường nếu không có phép của cấp trên. Cách đây 37 năm, ngày 2 tháng 4-1972 trung tá William Camper, cố vấn trưởng trung đoàn 56 đóng tại Camp Carroll điện về ban cố vấn sư đoàn 3 xin di tản. Ông được lệnh phải ở lại, nhưng trung tá Camper cúp máy và tìm đường thoát thân.
30 năm sau, năm 1972, vị cố vấn trung đoàn, William Camper đã viết lại câu chuyện vì sao cố vấn Hoa Kỳ phải bỏ đơn vị.
Lúc đó Trung tá Camper đã là 1 tay đầy kinh nghiệm. Nhiệm kỳ 1964 ông cố vấn cho Trung đoàn 2 tại Vùng I. Tình nguyện thêm nhiệm kỳ thứ hai năm 1972 ông làm cố vấn trưởng cho Trung tá Phạm văn Đính, trung đoàn trưởng 56 thuộc sư đoàn 3 Bộ binh. Đây là trung đoàn yếu của sư đoàn hỏa tuyến. Nhưng trung đoàn trưởng lại được coi là 1 sỹ quan xuất sắc. Anh hùng Tết Mậu thân, chỉ huy đơn vị Hắc báo Sư đoàn 1, lính của ông được vinh dự kéo cờ trong bức hình lịch sử 1968 tại Thành Nội. Trung tá Trung đoàn trưởng 28 tuổi, vừa đem đơn vị vào nhận căn cứ Carroll được mấy ngày. Cố vấn Camper cũng là tay cừ khôi. Có phụ tá là thiếu tá Brown lỳ lợm. Camp Carroll nằm ở phía nam Cam Lộ, trên đường 9, lối đi vào Hạ Lào.
Trước đây Carroll là căn cứ của sư đoàn Nhẩy dù Hoa Kỳ 101 có cả tiểu đoàn pháo binh cơ động 175 ly. Đây là một căn cứ hỏa lực mạnh nhất vùng I chiến thuật yểm trợ cho Khe Sanh và bao vùng toàn thể mặt trận tây bắc Quảng Trị.
Cho đến cuối tháng 3-1972 báo cáo của trung tá William Camper ghi nhận căn cứ Carroll có 1.800 binh sĩ, 1 tiểu đoàn bộ binh, Bộ chỉ huy trung đoàn, và nhiều đơn vị trực thuộc. Một tiểu đoàn pháo 155 tăng cường gồm 4 pháo đội 4 góc. Hai pháo đội 105. 1 pháo đội 155. Đặc biệt có 1 pháo đội 175 với súng đại bác nòng dài được gọi là vua chiến trường. Quân dụng này do pháo binh Hoa Kỳ khi rút khỏi Carroll đã bàn giao lại.
Nội trong tháng 3-72 địch đã uy hiếp các tiền đồn quanh căn cứ Carroll phải rút. Gần như không còn đơn vị nào ở phía Bắc và Tây bắc. Trại Carroll đã ngửi thấy mùi của Bắc quân. Vào lúc 11:30 ngày 30-3-1972 toàn bộ trung đoàn pháo Bông Lau của cộng sản với 40 đại bác 130 và 122 tập trung hỏa lực dứt điểm Carroll.
Sau 1 ngày 1 đêm, tinh thần binh sĩ giao động nhưng ban cố vấn nghĩ rằng vẫn còn chịu đựng được. Sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng khi bộ binh cộng sản tấn công.
Lúc đó trung tá Camper đang nóng lòng chờ đợi thiếu tá cố vấn phó Joseph Brow đi lãnh tiếp tế chưa thấy về đồn. Đến chiều ông này vượt vòng vây về được Carroll.
Hai anh sĩ quan Mỹ hết sức cô đơn giữa đơn vị Việt Nam, có cả anh trung đoàn phó Việt Nam thù Mỹ ra mặt. Tương lai chưa biết ra sao. Bèn lấy 2 lon coca nguội cuối cùng uống mừng lễ Easter tháng 4-1972. Chưa bao giờ những chiến binh Hoa Kỳ phiêu lưu này có được ngày lễ Phục sinh lạ lùng như vậy. Quay đi quay lại chợt Camper không thấy có sỹ quan Việt Nam. Họ đi đâu hết. Vội vàng nhào lên bộ chỉ huy trung đoàn và được biết ông trung tá Đính họp bộ tham mưu khẩn cấp và loan báo Camp Carroll sẽ đầu hàng.
Trong câu chuyện kể lại 30 năm sau, Trung tá Camper cho biết, ông từ chối việc đầu hàng và liên lạc về Sư đoàn 3 xin lệnh cố vấn trưởng cho phép tìm đường máu mà ra đi. Lệnh từ cố vấn sư đoàn bắt phải ở lại vì nghĩ rằng viên cố vấn trung đoàn mất tinh thần nên tìm đường trốn khỏi đơn vị.
Sau cùng, cứ như phim ciné, 2 tay cố vấn liều chết được trực thăng Mỹ vô tình bay ngang có phản lực hộ tống đáp xuống cứu thoát, đem theo hơn 30 binh sĩ Việt Nam cùng thoát hiểm với vũ khí đầy đủ.
Khi về đến Ái Tử rồi đến Quảng Trị, cố vấn trưởng và tướng Giai, tư lệnh sư đoàn 3 vẫn không tin là trung đoàn 56 đầu hàng. Về sau khi binh sĩ chạy về kể chuyện đơn vị treo cờ trắng và cho đến khi nghe tiếng của trung tá Đính trên đài phát thanh Hà Nội, tướng Giai ngỏ lời xin lỗi trung tá Camper.
Tuy nhiên, trong báo cáo tường trình của viên cố vấn có 1 đoạn viết như sau:
“Khi trực thăng cấp cứu đưa được cố vấn ra khỏi trại, phi công nhìn thấy cả trung đoàn đang chuẩn bị đầu hàng. Vải trắng bay phất phới mọi nơi. Trung tá Camper cảm thấy hết sức bất mãn, quả là thảm kịch. Chưa bao giờ quân miền Nam lại đầu hàng cả trung đoàn. Tuy nhiên, ông viết tiếp, phải ghi nhận rằng không phải tất cả các chiến binh Việt Nam tại đồn Carroll đã lựa chọn giải pháp đầu hàng. Một pháo đội thủy quân lục chiến Việt Nam duy nhất đóng tại Carroll với nhiệm vụ yểm trợ bao vùng. Đơn vị này đã gửi điện văn về Mai Lộc cho biết họ sẽ không đầu hàng. Khi Bắc quân tiến vào cổng trại, pháo đội B của lính mũ xanh hạ ngang nòng súng tiếp tục chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. Rồi cũng chẳng phải tất cả các lính bộ binh khác đều theo lệnh trung tá Đính. Trên 300 binh sĩ của tiểu đoàn đã phá vòng vây để tìm đường tự giải thoát. Cho đến giữa tháng 4-1972 đã có gần 1.000 chiến binh của trung đoàn 56 vượt qua phòng tuyến của Bắc quân mà về miền Nam.”
Đó là nguyên văn báo cáo của Camper mới được phổ biến mấy năm gần đây.
Người anh hùng và kẻ phản bội trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Trên đường đi ngược dòng lịch sử, tìm về cuộc chiến mùa Phục sinh năm 1972, chúng tôi đọc tất cả tài liệu và đi hỏi rất nhiều người. Đặc biệt muốn tìm cho ra, ai là nhân chứng cho thủy quân lục chiến của pháo đội B, trấn thủ Camp Carroll vào tháng 4 năm 1972. Và ai là người pháo đội trưởng đã không chịu đầu hàng. Ai đã từ chối treo vải trắng trong khu vực trách nhiệm. Nếu giờ này còn sống thì anh ở đâu.
Lang thang trong rừng lịch sử chiến tranh trên sách báo Mỹ, tôi tìm thấy tác phẩm Người anh hùng và kẻ phản bội, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa(Heroism and Betrayal in The ARVN).
Tác giả Andrew A. Wiest. Cuốn sách này viết về 2 nhân vật của quân lực miền Nam. Đó là trung tá Huế và trung tá Đính.
Cả hai đều là chiến hữu xuất thân từ miền Trung Việt Nam. Hoàn cảnh đưa đẩy cùng vào sinh ra tử trong nhiều trận. Trung tá Đính, như chúng ta đã biết, đầu hàng cộng sản đầu tháng tư 72, và được tuyên dương rất ồn ào. Được phong cấp bậc trung tá “quân đội nhân dân”. Về sau lên thượng tá, và ngày nay giải ngũ về sống tại Huế.
Trung tá Huế thì đi tù cộng sản và được HO qua sống tại Hoa Kỳ. Ông Huế lẫm liệt từ đầu tới cuối, anh dũng trong chiến tranh, can trường trong chiến bại khi đi tù cải tạo. Sau cùng qua Mỹ làm lại cuộc đời. Hoàn cảnh của ông cũng như hàng ngàn chiến sĩ miền Nam và tác giả gọi là anh hùng.
Phần ông trung tá Đính, với ngọn cờ trắng tại Camp Carroll và những lời xu nịnh kẻ thù trên radio, tác giả xếp ông vào loại phản bội. Dù trước đó ông Đính đã từng là anh hùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Đã được gọi là “Young lion”. Xếp hạng sĩ quan trẻ xuất sắc như các tiểu mãnh sư.
Tuy nhiên, toàn bộ cuốn sách vẫn không tìm thấy bóng dáng của Pháo đội B thủy quân lục chiến tại Camp Carroll vào tháng 4-1972.
Ngoài ra, quyết định đầu hàng của Trại Carroll và trung tá Đính là một mất mát đau thương chưa từng xẩy ra cho miền Nam. Dù cho có sự tuyên bố phản bội rõ ràng, nhưng thật sự cũng còn nhiều lý do rất phức tạp chưa ai hiểu rõ.
Chuyện “Mùa hè Cháy “:
Cuộc chiến mùa phục sinh 1972, phe ta gọi là mùa hè đỏ lửa theo tác phẩm rất nổi tiếng của Phan Nhật Nam. Phe miền Bắc cũng có tác phẩm của đại tá pháo binh Quý Hải. Sách có tựa đề là Mùa Hè Cháy. Đây là cuốn nhật ký chiến tranh gần 300 trang viết về đọan đường hành quân kéo pháo từ miền Bắc vào đánh trận Quảng Trị. Đơn vị pháo của tác giả có tên là trung đoàn Bông Lau, trực tiếp bắn pháo tập trung vào căn cứ Carroll và sau cùng chính trung đoàn pháo này được coi như có công đầu trong việc thúc ép Carroll đầu hàng.
Tác phẩm này đã tả chi tiết con đường của miền Bắc đưa pháo vào chiến trường và chính khả năng pháo binh rất mảnh liệt từ 122 đến 130 và 152 ly của khối Cộng đã đạt được thắng lợi trong giai đoạn đầu của chiến dịch Quảng Trị mùa hè 72. Trang 211 tác giả đã có dịp ghi rõ vào ngày 1 tháng 5 năm 1972 Bắc quân tràn vào thị xã Quảng Trị, sau khi sư đoàn 3 tan hàng rút đi. Chính vào giờ phút đó lính và dân chạy loạn chen chúc trên quốc lộ số 1 thì pháo 122 và 130 của trung đoàn 38 bắn chụp lên toàn bộ đoạn đường Quảng trị-La Vang và làm thành 1 thảm cảnh mà chính cộng sản cũng biết là rất tàn khốc, khủng khiếp.
Đó là nguyên văn tài liệu của đại tá pháo binh cộng sản Nguyễn Quý Hải tả về con đường mà sau này báo chí miền Nam gọi là Đại lộ Kinh hoàng.
Trong cuốn sách này, tác giả của pháo binh miền Bắc đã xử dụng nhiều bài viết của người Việt tại hải ngoại để dành đọc thêm phần tham khảo.
Chúng ta có dịp thấy rõ văn chương của phe cộng sản dù cố viết trung thực, vẫn còn nhiều đoạn tuyên truyền giáo điều làm hỏng giá trị lịch sử của tác phẩm.
Trong khi đó bài viết của người Việt tự do rất đơn giản và khách quan. Không có đoạn nào tuyên truyền bình luận chính trị làm người đọc chán nản.
Tuy nhiên điều quan trọng nhất là khi viết về vụ đầu hàng của căn cứ Carroll, không có hàng chữ nào của cộng sản viết về hành động không chịu đầu hàng của pháo đội thủy quân lục chiến.