Jarai, những người bị hy sinh cho công nghệ Vàng trắngNhạc Jarai được Unesco công nhận là thuộc gia tài Việt nam (EdM).
Phan Văn Song
Phỏng theo phóng sự của Jean-Matthieu Gauthier (Tổ Chức Les Enfants du Mékong).
Sáng sớm tinh sương, cây cỏ mờ hơi sương. Hàng cây thẳng tắp bên lề đường trông như những bức họa đồ của kiến trúc sư, từng hàng sọc thẳng tắp đen trắng. Nhửng hàng cây đen tạo những hàng sọc, trong màu sương sửa đục lẫn lộn xa xa nét chấm phá của vài đám người đang đục, khoét, thâu gom những giọt sửa đục quý giá của mủ cao su, « Vàng trắng ».
Hình ảnh tuy thoáng thoáng ẩn hiện trong buổi sáng mờ sương hôm ấy với tôi thật là hình ảnh đầy cảm xúc.
« Rubber tree, rubber tree » (Cây cao su) Aong la to giới thiệu để át tiếng nổ cùa chiếc xe mô tô chở hai chúng tôi đang vùn vụt lao dưới dước cơn mưa đầu mùa. « But it was the jungle before », và anh bạn người Jarai thêm một câu thòng « a long time ago .... » cùng trong một giọng nói ấy, nhưng tôi cảm như một tiếng nức nở nghẹn ngào ( Nhưng đây trước kia là rừng già, trước kia ...xưa lắm ).
Rừng già ư ". Không tin được. Trên đoạn đường dài, như cuốn phim đang chiếu và bị cà lăm, những hình ảnh đang trãi dài, tiếp nối nhau, giống hệt y nhau, lặp lại nhau, trãi dài trên hàng cây số, những hàng cây cao su thẳng tắp, gạch sọc, tiếp nối nhau vùn vụt chạy dọc theo nhau bên lề đường. Và thỉnh thoảng những đồn điền cây cao su, nhường cho vài hàng café của những đồn diền cà phê, ... Nhưng rừng già đâu " Không có, và không thể tin là có được. .
Một nền Văn hóa đang diệt vong:
Chỉ cần có 30 năm là đủ để hủy hoại toàn bộ « khu rừng muôn vạn thánh » (la forêt des mille génies ). « Cuộc tàn phá bắt đầu ngay vào những ngày đầu những ngày Thống Nhứt đất nước Việt Nam năm 1975» Tiến sĩ Matthieu Guérin, giáo sư Trưởng khoa Sử Hiện đại của Viện Đại Học Caen và chuyên viên nghiên cứu nền Văn hóa dân tộc Jarai tiếp tục nhấn mạnh để gây sự chú ý của các thính giả trong buổi nói chuyện tuần vừa qua ở thính phòng Đại học Sorbonne về cuôc tàn phá Rừng già và cướp đất ở Tây nguyên Viêt nam .
Hiện tượng một nền nông nghiệp lương thực (của người dân tộc Jarai ) được biến thành một nền nông nghiệp công nghệ và thương mãi dài hạn ngày nay đã lên đến một mức độ trầm trọng có nguy cơ đến tương lai của người Jarai. « Trước hoàn cảnh bị cướp đất có kế hoạch, người dân Jarai trước chỉ biết lùi sâu vào vùng rừng già. Nhưng ngày nay, gần như không còn rừng già nữa, và họ đang bị đưa vào bẩy sập. Không biết làm sao hơn, hoặc là chấp nhận số phận, bị đồng hóa vào dân tộc Kinh, hoặc là kêu gọi mở ra một cuộc đấu tranh đầy tuyệt vọng ».
Thật vậy, đây là một nền Văn hóa đang bị hủy hoại. Cách đây không bao lâu, người dân tộc Jarai di săn cọp trong những khu rừng già (của họ), câu cá trên những giòng nước chảy siết, hái hoa, hái trái, đốt rừng làm rẩy ... và dân tộc Jarai, những đứa con của rừng lớn lên, sanh tồn, sống và sanh hoạt trong rừng, với rừng. Và còn hơn thế nữa, dân tộc Jarai có một mối tương quan liên hệ đặc biệt và mật thiết với rừng, họ với rừng mà một, như những tài liệu nghiên cứu của nhà truyền giáo – nhân chủng học Jacques Dournes đã chứng minh.
Nhưng, ...ngày nay «Hãy tưởng tượng rằng trong vòng chỉ 30 năm ngắn ngủi, quý bạn đang nhìn thấy gia tài văn hóa của quý bạn đang bị tiêu hủy và trên đường sụp đổ » Tiến sĩ Matthieu Guérin nói tiếp. « Đó là những gì hiện đang xảy ra với dân tộc Jarai. Nếu họ không hòa đồng, nếu họ không chấp nhận lối sống của người Kinh, và nếu họ không chấp nhận lối sống định cư, họ sẽ không còn nơi cư ngụ. Và để kết luận chúng tôi gọi đây là một loại diệt (nhân) chủng (ethnocide) ».
Sự khan hiếm đất đai :
Cũng bắt đầu vào những năm 1990, với những chánh sách Đổi mới, với sự tăng vụt của thị trường Cả phê, với những luật lệ mới về địền địa ... cuộc sống của người dân tộc Jarai bắt đầu đi vào ngỏ cụt . Cũng bởi chánh sách Đổi mới, dân Kinh mới có ý thức tiềm năng của đất đai màu mỡ, giàu có nhưng kém sử dụng của Tây nguyên. Nhiều vùng họ có cảm tưởng còn « bị bỏ hoang », và cứ thế mạnh ai nấy đỗ xô vào xâm chiếm. Nhưng luật điền địa 1993 cũng không giúp đỡ anh dân tộc địa phương Jarai. Với luật nầy, anh nông dân Jarai về mặt pháp lý là sở hữu chủ của mãnh đất mình, nhưng Nhà nước quản lý việc sủ dụng và khai thác. Và sự thật là, Nhà nước chỉ cho phép anh nông dân chủ nhơn ông quyền khai thác có hạn định theo mủa màn, hằng năm hay vĩnh viễn cũng tùy theo loại ngũ cốc hay hoa mầu. Khốn nạn thay cho dân tộc Jarai, là họ canh tác theo kiểu Jarai là kiểu du mục, đốt rừng làm rẩy, năm nay làm ở đây, năm sau đi chổ khác, để cho nương cũ, rẩy cũ nghỉ mễt, họ canh tác với những loại ngũ cốc lương thực, kém giá trị kinh tê, và đau đớn hơn là trong tay họ không có một tấm giấy chứng minh những mãnh đất ấy là gia sản của họ... Và cứ thế là đất đai của họ lần lần bị lấn chiếm.
Đồng thời gian ấy, khi những đồn điền cà phê vùng Tây nguyên Trung phần đưa Việt nam lên hàng số hai thế giới về mức xuất cảng cà phê, thì những đồn điền cao su cũng tăng nhanh vượt bực mức sản xuất đem về cho Việt nam trên 15 Tỷ đồng hằng năm (khỏang 700 Triệu €) và Tiến sĩ Matthieu Guérin kết luận rằng nay : « Cà phê đã biến thành Vàng đen, cao su là Vàng trắng, và một cuộc di dân khổng lồ bắt đầu được tổ chức để đem người Kinh miền dưới xâm nhập vùng Cao nguyên Trung phần ».
Ngày nay tại thành phố Pleiku thủ phủ Tỉnh Gia Rai, có 200 ngàn người Việt gốc Kinh và 40 ngàn người dân tộc Jarai. Để so sánh, trước Đệ nhị thế chiến, tỷ số dân Thượng* ở Tây nguyên Trung Phần Việt nam là 93%.
Ngày nay nếu ta đến viếng Pleiku, «phố núi cao, của các em Pleiku mà đỏ môi hồng », nếu ta đi giữa thành phố, nay, không còn « là đi năm phút quay về chốn cũ » nữa, mà sẽ thấy một thị xã tân thời, đầy những cao ốc, với những nạn kẹt xe, bụi bặm, ồn ào bởi những tiếng xe gắn máy, chúng ta chỉ tìm thấy bóng người Thượng, người dân tộc Jarai ở tụ tập ( bị vất) bên ven bờ thành phố, trong những nhà tôn, vách ván trên nền đất nện tạo thành những khu nhà bình dân (bidonville – slum) điêu tàn, dơ dáy. ...
Anh bạn Aong vừa cười vừa nói «Anh tìm xem có hàng cây nào không " » Thật vậy, những nhà sàn truyền thống trên vùng Gia Rai phải tìm đỏ con mắt mới thấy, và rừng già phải còn lâu mới nhìn thấy. Trái lại trong khu bình dân ấy, trong những căn nhà ván mái tôn ấy , đêm như ngày, ngày như đem, đen tối không một ánh sáng, dơ dáy, bẩn thỉu, hoang trống, ít bàn ít ghế, chỉ những sạp ngủ, vài hình ảnh lẫn lộn được chưng lên bàn thờ, hình Hồ chí Minh bắt buộc, hình Đức mẹ, thánh giá Thiên Chúa. Trong một căn nhà kia, trên chiếc bàn xiêu vẹo, một gà-mên móp méo chứa vài thức ăn thừa: vài muổng cơm nguội, ba quả bắp « Bửa cơm trưa còn lại và đó cũng là phần cơm chiều »
Aong cắt nghĩa sau khi đã hỏi bà chủ nhà.
Đừng nghĩ rằng tình trạng kinh tế của dân tộc Jarai khá hơn lúc trước vì nhờ nến kinh tế vùng Tây nguyên đã phát triển. Rất ít gia đình người dân tộc có điện vào nhà, và rất hiếm nhà người dân tộc có TV, ta có thể kết luận nhà người dân tộc Jarai sống cũng giống như giấc mơ của họ: tí ti, tạm sống qua ngày.