Hôm nay,  

Suy Trầm Toàn Cầu

13/11/200800:00:00(Xem: 6567)

Suy Trầm Toàn Cầu

Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
...nhập siêu của VN còn tăng và là vấn đề nan giải nhất cho Việt Nam trong nhiều năm tới...
Một bóng ma đang ám ảnh kinh tế thế giới, đó là nạn suy trầm toàn cầu trong thời gian tới. Việc Trung Quốc loan báo kế hoạch kích cầu trị giá gần 600 tỷ Mỹ kim vẫn không trấn an được các thị trường Đông Á. Diễn đàn Kinh tếđài RFA sẽ tìm hiểu viễn ảnh suy trầm trong các nền kinh tế gọi là "tân hưng" hay đang lên, qua phần trao đổi cùng chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.
Hỏi: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Cuối tuần qua, Trung Quốc bất ngờ loan báo kế hoạch kích cầu trị giá tương đương với 586 tỷ Mỹ kim để đưa kinh tế ra khỏi nguy cơ suy trầm. Trước đó, và như chúng ta có trình bày trong chương trình phát thanh cách đây hai tuần vào ngày 29 tháng 10, hiện tượng gọi là "carry trade" của Nhật cũng đe dọa nền kinh tế Nhật Bản. Trong khi ấy, hai đầu máy kinh tế khác của thế giới là Hoa Kỳ và Âu Châu vẫn chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính. Vì vậy, trong chương trình kỳ này, xin đề nghị là chúng ta sẽ phải tìm hiểu về nguy cơ suy trầm sản xuất toàn cầu, nhất là của các nước "tân hưng" Đông Á như ông thường gọi. Câu hỏi đầu tiên là có phải là nạn suy trầm kinh tế đang xảy ra hay không"
- Suy trầm kinh tế là khi sản xuất bị đình đọng trong hai quý liền. Trên bình diện quốc tế, người ta nói đến suy trầm toàn cầu khi tốc độ tăng trưởng bình quân của cả thế giới chỉ còn là 2,5% một năm. Vào tuần qua, các trung tâm nghiên cứu kinh tế đều phải điều chỉnh lại dự đoán cho thấp hơn, với con số cực kỳ đáng lo ngại là tăng trưởng sản xuất toàn cầu sẽ chỉ còn là 2,20% một năm vào năm tới. Cho nên, người ta tin rằng suy trầm toàn cầu đang bắt đầu xảy ra... Vấn đề đáng chú ý là hoàn cảnh của mỗi khối kinh tế lại mỗi khác, nên cách ứng phó và hồi phục cũng thế, mỗi quốc gia sẽ có khả năng hay vấn đề riêng, như Nam Hàn và Đài Loan sẽ khác Việt Nam.
Hỏi: Chúng ta sẽ bắt đầu bằng Trung Quốc. Thưa ông vì sao kế hoạch cứu nguy kinh tế được Bắc Kinh thông báo lại có vẻ như chưa trấn an được các thị trường cổ phiếu khiến chứng khoán Âu Châu vẫn sút giảm nặng"
- Như trong mọi chuyện liên hệ tới Trung Quốc, ta phải trừ hao, trừ bì, tức là xét lại sự thật bên dưới các con số cho rõ ràng hơn. Thứ hai, ta cũng không quên đặc tính khoa trương của nền văn hoá Trung Quốc, khi Bắc Kinh công bố kế hoạch kích cầu trị giá bốn ngàn tỷ đồng Nguyên, với hàm ý cứu nguy cả nền kinh tế toàn cầu. Tôi xin được giải thích...
- Đầu tiên, chi tiết của kế hoạch ấy chưa được thông báo và chỉ gây ấn tượng - tức là cảm quan khác với thực tế. - rằng Trung Quốc sẽ bơm vào kinh tế một ngân khoản tương đương với 20% tổng sản lượng nội địa GDP của họ. Nghe vậy, ai cũng thấy là lớn lao vĩ đại nên có thể mừng rỡ hôm Thứ Hai. Qua hôm sau thì ta biết thêm nhiều điều không hẳn như vậy. Thứ nhất, kế hoạch này bao gồm cả một số chương trình đã được chuẩn chi từ trước. Thứ hai, kế hoạch có thể sẽ kéo dài khá lâu, theo lối "ngày Giời tháng Phật" của văn hoá Á Châu, tức là trong vài năm, thậm chí tới năm năm, nên tác dụng cấp cứu tất nhiên giảm sút. Thứ ba, với hệ thống quản lý kinh tế và chính trị không mấy khác Việt Nam, trong giả thuyết không tưởng mà giới kinh tế ví von khi sản xuất bị đình đọng, là nhà nước đem tiền lên máy bay rải xuống cho dân xài, thì bao nhiêu tiền sẽ thật sự lọt xuống tay người dân cho họ tiêu thụ và gia tăng số cầu để đẩy mạnh sản xuất" Thứ tư, cả thế giới đều biết tình trạng phát triển thất quân bình tại các tỉnh nằm sâu trong lục địa và từ nhiều năm nay, lãnh đạo Trung Quốc đã muốn dồn tiền đầu tư vào đó mà chưa nổi. Làm sao họ kịp thực hiện các dự án đầu tư có thể sử dụng ngân khoản kích cầu đó trong một thời gian ngắn" Nếu xét như vậy, người ta không nên lạc quan mà phải dự đoán rằng nhiều phần thì nền kinh tế này sẽ hạ cánh nặng nề, nếu may mắn thoát khỏi động loạn xã hội.
Hỏi: Dù sao, Trung Quốc cũng có một lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn nên họ có phương tiện ứng phó tương đối khả quan hơn nhiều xứ khác, điều ấy có đúng không"
- Dự trữ ngoại tệ của xứ này có thể vừa vượt qua 1.900 tỷ Mỹ kim, có lẽ gần tới 2.000 tỷ, điều ấy là đúng. Nhưng, cho dù có đem khoản tiền ấy phát không cho dân nghèo thì cũng chưa giải quyết được vấn đề, huống hồ lãnh đạo của họ cũng cần đầu tư một số trong ngân khoản ấy để kiếm lời. Nếu kiếm lời trong thị trường nội địa được thì họ đã làm từ lâu, mà làm không nổi vì mức độ sinh lời rất thấp của các dự án đầu tư trong các tỉnh nội địa và đây là vấn đề trong cơ cấu kinh tế chính trị của xứ này khiến họ mới đầu tư ra ngoài, và khoa trương là để cấp cứu thế giới.


- Trong giả thuyết thực tế là trung ương có chỉ thị cho các tỉnh là hãy lấy ngân sách địa phương tài trợ các dự án sản xuất, sau này sẽ bồi hoàn lại, người ta cũng hoài nghi thiện chí của các tỉnh. Cùng lắm thì đảng bộ địa phương sẽ moi ra những dự án họ có sẵn trong túi để chia chác quyền lợi cho nhau và kết quả kích cầu là thấm tiền xuống dưới, sẽ rất chậm và giới hạn. Nếu so sánh với kế hoạch kích cầu hay hạ lãi suất của các nền kinh tế tự do thì ta thấy ngay sự khác biệt.
Hỏi: Ra khỏi hoàn cảnh Trung Quốc, tình hình các nước Á châu khác thì sao"
- Hai khối kinh tế Hoa Kỳ và Âu Châu bị hậu quả kinh tế của khủng hoảng tài chính nên đang bị suy trầm. Các nền kinh tế đang lên của Á Châu thì bị hậu quả kinh tế của nạn suy trầm đó do sự suy xụp của các thị trường xuất khẩu. Hai nguyên do khác nhau nên dẫn tới hậu quả khác nhau.
- Một sự khác biệt quan trọng mà chúng ta đã nói tới và sẽ còn nhắc lại là sức ép rất mạnh của thị trường ngoại hối của các nước Á Châu, đa số vốn giàng nền kinh tế vào việc xuất khẩu sang các thị trường Âu Mỹ. Khủng hoảng rồi suy trầm kinh tế tại Mỹ chẳng hạn sẽ dẫn tới hậu quả là dân Mỹ sẽ tần tiện hơn, tiêu xài ít hơn, tiết kiệm nhiều hơn, số nhập siêu của Mỹ cũng sẽ giảm như người ta đã bắt đầu thấy từ mấy tháng nay. Khi ấy, tại các nước Á Châu, triển vọng xuất khẩu để ra khỏi suy trầm sẽ càng giảm sút. Quốc gia nào mà có thị trường nội địa đủ lớn để tạo ra sức đẩy thì còn hy vọng, nhưng đa số các nước Đông Á, kể cả Việt Nam, lại không được như vậy.
Hỏi: Tuy nhiên, cũng chính nguy cơ suy trầm ấy có thể đã đẩy lui hai áp lực rất lớn là giá cả dầu thô và nông sản đã sút giảm. Liệu các nước Đông Á có nhờ đó mà bớt được mối lo lạm phát hay không"
- Thưa điều ấy rất đúng cho các nền kinh tế đang bị lạm phát vì giá thương phẩm, tức là nguyên nhiên vật liệu và nông sản, đã tăng vọt từ năm ngoái cho tới giữa năm nay. Nhưng, thương phẩm sụt giá cũng gây thiệt hại cho các nước xuất cảng, thí dụ như cho Việt Nam khi xuất khẩu dầu thô. Và nếu hệ thống quản lý vĩ mô lại yếu kém, như trường hợp Việt Nam, tác dụng kích cầu nhờ nông sản hay năng lượng sụt giá vẫn không bù đắp được số thất thâu vì xuất khẩu bị giảm. Nếu có viễn kiến và khả năng hành động, các quốc gia gặp hoàn cảnh này nên duyệt xét lại chiến lược kinh tế và tổ chức lại hệ thống sản xuất và quản lý thì sẽ có hy vọng phục hồi sau này.
Hỏi: Nếu vậy, các quốc gia như trường hợp Việt Nam nên nhìn vấn đề này như thế nào và có thể cải cách lại cơ cấu kinh tế ra sao"
- Qua nhiều năm liền, các nước Đông Á đều đã quá quen với một số trào lưu kinh tế thuận lợi của thế giới. Trào lưu ấy đang thoái lui và sữ đảo ngược sẽ kéo dài trong nhiều năm tới đây. 
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ không sung mãn khả quan như trong giai đoạn 2001 tới 2008. Thứ hai, thị trường tiêu thụ Hoa Kỳ hết là thị trường đầu tiên và cuối cùng của các nước, nhập siêu của Mỹ đang giảm và sẽ còn giảm. Thứ ba, và ngược lại, số xuất siêu - tức là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu - của các nước Đông Á sẽ giảm. Thứ tư, trong hoàn cảnh bất lợi ấy, số nhập siêu của Việt Nam sẽ còn tăng và đây là vấn đề nan giải nhất cho Việt Nam trong nhiều năm tới. Thứ năm và là hậu quả của hai vấn đề kể trên, dự trữ ngoại tệ của các nước Đông Á sẽ hết tăng vọt như trong nhiều năm qua và của Việt Nam thì sẽ giảm mạnh. Thứ sáu, thị trường thương phẩm là nguyên nhiên vật liệu cùng nông sản sẽ ra khỏi chu kỳ lên giá mà còn giảm mạnh hơn. Ngược lại, và thứ bảy, đồng Mỹ kim sẽ hết sụt giá mà tăng và sẽ còn tăng nữa. Chúng ta cần nhìn trên toàn cảnh và trong một viễn ảnh dài để thấy rằng thế giới đang bước qua một khúc quanh cả chục năm mới có một lần. Các nước đang phát triển chưa tách khỏi hiệu ứng toàn cầu thì sẽ bị thiệt hại nặng nhất.
Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, nếu tình hình này kéo dài trong nhiều năm tới như ông vừa nói, Việt Nam có thể làm gì"
- Trên diễn đàn này, từ nhiều năm nay rồi, chúng ta vẫn nói đến một điều mà nhiều người ở trong nước cho là lạc lõng, đó là phải nâng cao khả năng tiêu thụ nội địa cho một thị trường thật ra cũng đủ đông đủ lớn, tới gần 90 triệu dân, khác hẳn trường hợp của Đài Loan chẳng hạn.
- Từ nhiều năm rồi, người ta cứ tưởng là nên giàng đầu máy kinh tế của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ rồi Âu Châu và dân chúng Âu Mỹ tiêu xài chừng nào thì mình làm giàu chừng đó. Trong khi ấy, người ta lại coi thường, thậm chí bỏ rơi hoặc bóc lột đất đai thành phần dân chúng tại thôn quê vì lầm tưởng rằng họ không đóng góp gì cho nền kinh tế xuất khẩu của mình. Đây là cơ hội cho Việt Nam xét lại toàn bộ chiến lược phát triển và cải tổ lại cơ chế cho cân bằng hơn hầu thị trường nội địa có thể là một đầu máy bổ túc có thể lôi kéo tăng trưởng sản xuất. Trung Quốc đã thấy vấn đề ấy từ năm năm trước mà xoay trở chưa xong vì những tệ nạn quá lớn trong hệ thống kinh tế và chính trị của họ. Việt Nam có hoàn cảnh khác nên càng sớm xoay chuyển thì càng dễ hồi phục trên một nền tảng quân bình, công bằng và lành mạnh hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.