Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Tháng Tư: 33 Năm Sau Ở San Jose

27/05/200800:00:00(Xem: 6561)

Bảo tàng viện Thuyền nhân và Việt Nam Cộng hoà sắp mở cửa. (ảnh Bùi Văn Phú)
30.4.1975 đánh dấu ngày chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam mà người Mỹ đã trực tiếp can dự chiến đấu, hi sinh gần sáu vạn binh sĩ để chuốc lấy một sự thất bại nhục nhã lần đầu tiên trong lịch sử. Vì thế trong dư luận Mỹ, mỗi cuối tháng Tư không ít thì nhiều hai tiếng Việt Nam lại được nhắc đến: về cuộc chiến Việt Nam, về người Việt trong và ngoài nước, về một nước Việt Nam đương đại.

Trong những năm với con số ngũ niên kỉ niệm, như 10 năm, 15 năm hay 25 năm thì biến cố 30.4 được nhắc đến nhiều, những năm lẻ chỉ được nhắc thoáng qua và càng về lâu thì cuộc chiến ít còn được nhắc đến mà dư luận chú ý đến một Việt Nam đương đại và một cộng đồng người Mỹ gốc Việt ngày càng phát triển.

Trong tháng Tư vừa qua, đài truyền hình KTEH ở vùng San Jose và nhiều đài khác trong hệ thống PBS trên toàn nước Mỹ, đã chiếu một loạt những phim tài liệu chủ đề “The Vietnamese-American Journey”, Hành Trình của người Mỹ gốc Việt, gồm 3 phim:

1. “Oh, Saigon” của Hoàng Đoan chiếu tối 16.4

2. “Saigon, USA” của Lindsey Jang và Robert C. Winn, tối 23.4

3. “Bolinao 52” của Nguyễn Đức, tối 30.4

Oh, Saigon

Đây là câu chuyện với nhiều xung khắc trong cách nhìn về quê hương Việt Nam.

Gia đình cô Hoàng Đoan có kẻ ở bên này, người ở bên kia của cuộc chiến. Cha cô là một sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hoà. Khi đi tìm họ hàng cô khám phá ra cha cô có một người anh là cán bộ cộng sản miền Bắc và một người em trốn lính ở miền Nam. Gia đình cô được di tản vào tháng 4.1975, lúc cô còn nhỏ và mẹ cô đã bỏ lại một người con gái riêng là cô Vân, coi như là chị của cô Đoan, mà sau này được đến Mỹ đoàn tụ thì cô Vân cũng bỏ gia đình đi tìm nơi sinh sống xa.

Cha cô Đoan từng có quan điểm là sẽ không trở về cho đến khi không còn cộng sản trên quê hương cũ. Nhưng cuối cùng cô con gái đã thuyết phục được ông bố và cả gia đình làm một chuyến trở về cố hương năm 2005. Nhưng cuộc hội ngộ không lấy gì làm vui, cô Vân thường tạo ra những rắc rối, bực dọc khiến bố và mẹ cô không hài lòng, cãi nhau khi về đến Việt Nam. Cô Vân như vẫn còn mang mặc cảm và nỗi oán hận là đã bị gia đình bỏ lại khi di tản vào tháng 4.1975.

Buổi gặp gỡ giữa bố cô Đoan và ông bác, một cán bộ cộng sản, cũng không phải là một cuộc hội ngộ toát lên ý hướng hoà giải, ngược lại ám ảnh quá khứ như vẫn còn làm ngăn cách anh em. Còn cuộc gặp gỡ giữa bố và ông chú của cô, một người trốn lính thời chiến tranh, thì không khí phấn khởi, hài hoà hơn.

“Oh, Saigon” có ý hướng đi tìm sự hoà giải trong đại gia đình, nhưng điều đó chưa hiển hiện lên. Cũng như sự hoà giải trong lòng dân tộc Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có được, dù đã 33 năm sau ngày chiến tranh chấm dứt.

Saigon, USA

“Saigon, USA” do Lindsey Jang và Robert C. Winn thực hiện dựa vào một biến cố xảy ra đầu năm 1999, khi một thương nhân người Mỹ gốc Việt, ông Trần Văn Trường, đem hình ông Hồ Chí Minh và cờ đỏ sao vàng treo trong tiệm ở thành phố Westminster, miền nam California, nơi được coi là Little Saigon, thủ đô của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ.

Sự việc này đã khiến người Việt trong vùng tổ chức biểu tình nhiều ngày trước cửa tiệm để phản đối, được truyền thông Mỹ chú ý vì có lúc đã có hàng chục nghìn người tham dự, trong không khí tương đối ôn hòa, trừ đôi lúc sự xuất hiện của chủ nhân đã tạo ra những sự cố khiến cảnh sát phải can thiệp.

Sự việc hàng chục nghìn người Việt tập họp biểu tình là một điều lạ, ít khi điều này xảy ra trong cộng đồng gốc châu Á ở Mỹ. Jang và Winn làm phim “Saigon, USA” vì muốn tìm hiểu nguyên do tại sao người Việt lại có những phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt trước sự xuất hiện của những biểu tượng cộng sản.

Nhiều người Việt trong phim nói về lý do tại sao họ đã, hoặc không tham gia biểu tình. Người lớn tuổi kể lại những mất mát khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản. Đại Tá Lê Khắc Lý mất hết quyền bính, mất cả quê hương. Qua Mỹ, dù ông biết tiếng Anh và đã chuẩn bị tinh thần để chấp nhận một cuộc sống mới, nhưng khi phải đi lau chùi nhà vệ sinh thì tự nhiên nước mắt ông cứ tuôn trào vì cảm thấy như đang từ đỉnh cao bị rớt xuống hố sâu. Ông vẫn mơ có một ngày lấy lại quê hương.

Gia đình của họa sĩ Vi Lý, người Việt gốc Hoa, phải ra đi khi Hà Nội có chính sách đánh tư sản mại bản. Lúc đầu cô Vi cảm thấy xấu hổ, cô không hiểu tại sao chỉ vì một lá cờ, một tấm hình mà người Việt lại xôn xao biểu tình. Cuối phim, khi nghe được những câu chuyện của người tị nạn thì cô nghĩ khác đi về cuộc biểu tình đó.

Bảo Nguyễn bênh vực người chủ cơ sở thương mại có quyền treo cờ và hình ảnh cộng sản. Thấy hành động này bị phản đối quá thì Bảo nói ở Mỹ không có tự do. Trong một lần khác, khi đông đảo người Việt tổ chức vận động bầu cử ủng hộ Thượng Nghị Sĩ John McCain, Bảo và các bạn có mặt để phản đối việc ông dùng một từ mang tính miệt thị: "gook", để gọi cai tù Việt Cộng, nhưng Bảo cho rằng danh từ đó ám chỉ chung các sắc dân châu Á. Hôm đó Bảo và các bạn bị những người Việt khác đuổi khỏi nơi ông McCain đang vận động.

Vũ Nguyễn lúc đầu cũng suy nghĩ như Vi Lý về các cuộc biểu tình, sau hiểu được thì cùng bố là nhà hoạt động cộng đồng Chuyên Nguyễn tham gia sinh hoạt. Anh cho đó là một phần của cộng đồng dù chấp nhận nó hay không. Vũ nói một câu hết sức có lý: "Việt Nam Cộng Hoà với lá cờ vang ba sọc đỏ bên kia đại dương thì không còn nữa, nhưng đất nước đó đã được chuyển qua đây".

Vụ treo hình ông Hồ Chí Minh và cờ cộng sản Việt Nam ở Westminster là một biến cố đã khơi dậy những đau thương và tinh thần chống cộng của người Việt. Trong phim, nhà báo Andrew Lâm đã so sánh việc phô trương những biểu tượng cộng sản giữa Little Saigon chẳng khác nào đem hình Adolf Hitler treo giữa nơi có đông người Do Thái, hay đem hình Fidel Castro mà trưng giữa Little Havana.

Bolinao 52

“Bolinao 52” là phim về hành trình đến Mỹ của nhiều người Việt đã một thời được vinh danh là “Boat People” - thuyền nhân - những người như bà Trịnh Tùng, nhân vật chính trong phim, và ông Nguyễn Đức là nhà đạo diễn.

Đức Nguyễn rời Việt Nam năm 1980, sau bốn ngày trên biển được tàu chiến của Hoa Kỳ vớt, coi như trúng số, và sớm được đi Mỹ định cư.

Tàu của bà Trịnh Tùng rời Việt Nam tháng 5.1988, hỏng máy, mất phương hướng, trôi trên biển 39 ngày, nhiều lần thấy bóng tàu lớn, kêu cứu nhưng không được đáp lời. Nhiều người trên tàu đã chết vì đói khát. Sau nhiều ngày trôi giạt trên biển, 30 người đã chết, nhưng khi gặp chiến hạm Hoa Kỳ USS Dubuque thì vị chỉ huy là Đại úy Alexander G. Balian đã không cho lệnh vớt, chỉ cung cấp thức ăn và nước uống. Có thuỷ thủ chứng kiến cảnh người từ con tàu vượt biển trong tuyệt vọng đã bơi đến hay tìm cách leo dây lên chiến hạm mà phải chết chìm. Khi chiến hạm Mỹ bỏ đi vì đang trên đường qua vùng biển Iran công tác, con tàu của bà Trịnh Tùng đã phải trôi nổi thêm 19 ngày nữa. Cạn lương thực khiến nhiều người đã chết, như cô Vân được bà Tùng ôm trong tay mà cô ấy chết lúc nào bà cũng không hay; và nhiều người đã phải ăn thịt bạn mình vừa chết để hi vọng sống sót.

Ra đi với 110 người, đến khi con tàu được ngư dân Phillippin cứu sống, đưa vào đảo Bolinao chỉ còn 52 người.

Đến Mỹ định cư, 17 năm qua bà Trịnh Tùng chưa đi đâu. Bà muốn trước tiên được trở lại Bolinao là nơi bà và 51 người khác đã được cứu sống để cám ơn ngư dân Phillippin đã cứu sống bà và những bạn đồng hành. Gặp lại nhau, giữa những con người là số phận. Người cứu nạn bà Tùng vẫn sống cuộc sống nghèo ở ven biển. Bà tặng cho đôi vợ chồng ngư dân ít tiền. Từ Bolinao bà Tùng thả những chiếc bè nhỏ kết hoa trái và nến ra biển để tưởng nhớ, cầu nguyện cho 58 người đã cùng bà ra đi từ Việt Nam nhưng phải chôn vùi thân xác trong lòng biển cả.

Năm 1989 khi toà án quân sự Hoa Kỳ xử vị chỉ huy chiến hạm USS Dubuque, những người sống sót từ Bolinao 52 đã kiến nghị yêu cầu toà án tha cho Đại úy Balian. Nhưng ông vẫn bị kết tội lơ là trách nhiệm cứu giúp những người trong cơn thập tử nhất sinh trên biển. Ông bị khiển trách và buộc phải rời quân đội sớm.

Một cựu thủy thủ của tàu USS Dubuque, ông William Coolagon, đồng ý xuất hiện trong phim và kể lại những gì ông chứng kiến trên biển. Ông đã thấy người chết đuối nhưng không làm gì được vì phải theo lệnh của cấp chỉ huy.

Cuộc gặp gỡ giữa bà Trịnh Tùng và ông William Coolagon giúp bà Tùng xoá bỏ đi nỗi oán giận vì sao tàu Mỹ đã không vớt, giúp ông Coolagon vơi đi mặc cảm tội lỗi chèn nén trong lòng từ bấy lâu nay.

*

Tháng Tư, muà xuân đang về. Như tên gọi thân thương cho vùng đất này là “Thung Lũng Hoa Vàng”, nơi mà hơn ba mươi năm về trước còn nhiều cánh đồng hoa vàng rực rỡ, nay hoa chỉ còn loáng thoáng, thay vào là hãng xưởng điện tử mọc lên dọc hai bên những con đường lộ.

Tháng Tư San Jose, hoa vàng vẫn còn chỗ nở. Cờ vàng vẫn còn tung bay ở thủ đô của thung lũng điện tử. San Jose có non một triệu dân, với 10% con cháu của Âu Cơ và Lạc Long Quân. Trứng rồng lại nở ra rồng, sinh sôi phát triển theo nhịp tiến bộ của nước Mỹ. San Jose là nơi đầu tiên ở Mỹ có một bảo tàng viện nho nhỏ mang tên “Bảo Tàng Viện Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hoà” sắp mở cửa cho công chúng vào xem lại những trang sử của một quốc gia đã mất, để biết về lịch sử của một lớp người gọi là người Mỹ gốc Việt.

Tháng Tư về, người Mỹ nếu có nhớ chăng là hình ảnh chiếc trực thăng bốc người di tản khỏi Sài Gòn. Còn người Việt có trí khôn thì làm sao quên được mốc thời gian như đã dừng lại vào ngày 30.4 đó để phân định trước sau.

Cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đã một lần nói rằng: “Ngày 30.4 có triệu người vui, nhưng cũng có triệu người buồn”. Ở trong nước từ 33 năm qua, những người vui với ngày 30.4 đã có biết bao cơ hội thể hiện tâm tình và ước vọng của mình. Còn những người buồn vẫn phải âm thầm che dấu nỗi đau, niềm xúc cảm.

30.4 ở San Jose vẫn còn là ngày của những tưởng niệm và đấu tranh.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.