Hôm nay,  

Hy Vọng & Thực Tế Tan Hoang

31/01/201000:00:00(Xem: 2480)

Hy Vọng & Thực Tế Tan Hoang – Nguyễn Xuân Phong (Phan Quân dịch thuật)

LGT: Từ năm 1965 đến 1975, ông Nguyễn Xuân Phong đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ VNCH và biết nhiều bí mật dẫn đến việc mất Miền Nam. Trong thời gian hòa đàm Ba Lê về Việt Nam, từ địa vị thành viên phái đoàn lúc ban đầu, ông đã trở thành Trưởng Phái Đoàn vào giai đoạn cuối cùng, với chức vụ Quốc Vụ Khanh đặc trách hòa đàm trong chính phủ. Đặc biệt, ông cũng là nhân vật quan trọng trong Hội Nghị Thượng Đỉnh của nguyên thủ 7 quốc gia Châu Á Thái Bình Dương tại Manila vào 2 ngày 24 & 25 tháng 10, 1966, nhằm thẩm định về cuộc chiến ở Nam Việt Nam với sự tham dự của Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand E. Marcos; Tổng thống Đại Hàn, Park Chung Hee; Tổng thống Hoa Kỳ, Lyndon B. Johnson; Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo VNCH, Nguyễn Văn Thiệu; Thủ tướng Úc Châu, Harold Holt; Thủ tướng Tân Tây Lan, Keith Holyoake; Thủ tướng Thái Lan, Thanom Kittikachorn; và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương VNCH, Nguyễn Cao Kỳ. Tại Hội Nghị, ông là người Việt Nam duy nhất được trực tiếp nghe trưởng phái đoàn Nam Hàn cho biết: Tổng thống Nam Hàn đã cảnh giác, [qua kinh nghiệm cuộc chiến tranh Cao Ly] nếu như hòa đàm [với VC] có xảy ra, chính phủ Sài Gòn sẽ thấy Mỹ thương thuyết thẳng với phía bên kia [VC], còn Sài Gòn chẳng nói năng gì được trong khi thương thuyết, và cuối cùng sẽ phải chấp nhận và tuân hành những gì Mỹ và VC ký kết. Quả nhiên, 6 năm sau, lời tiên đoán này đã trở thành sự thật tại Hội Nghị Ba Lê, dẫn đến bản Hiệp Định đầy phi lý, khi Mỹ toa rập với VC cho phép quân đội xâm lăng VC được tiếp tục hiện diện trên lãnh thổ VNCH, dẫn đến thảm kịch 30-4-75. Sau đây, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu tiếp những sự thật được ông tiết lộ trong tác phẩm  "Hope and Vanquished Reality", được ông viết theo yêu cầu của "The Center for A Science of Hope" ở New York.
*

(Tiếp theo...)

Điều đó hoàn toàn trái ngược với bản tính của ông. Chính phủ của ông đã từng là đồng minh của siêu cường hàng đầu trên thế giới và đã từng được trên cả trăm quốc gia khác công nhận chính thức, thế mà giờ đây ông trở nên bơ vơ và bị bỏ rơi. Điều làm cho ông càng thêm nhục nhã là áp lực từ mọi phía, trong đó có cả áp lực của ông đại sứ Hoa Kỳ, yêu cầu ông từ chức để cho “Minh Lớn” có thể lên nắm quyền và điều đình - và có thể đi đến một thỏa hiệp nào đó - với phe cộng sản đang thắng thế.
Ông Hương nghĩ rằng ông phải tôn trọng Hiến Pháp của Việt Nam Cộng Hòa, một nguyện vọng mà nhân dân Nam Việt Nam đã biểu thị qua cuộc tổng tuyển cử. Ông không còn thấy có điểm nào khác để biện minh. Ông hy vọng rằng điểm này của luật pháp quốc tế và cung cách suy nghĩ đứng đắn của con người sẽ thúc đẩy Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự để can thiệp trở lại mà cứu nguy cho Sài Gòn. Hoặc giả điều đó có thể thúc đẩy Liên Hiệp Quốc, hoặc cộng đồng quốc tế, có một hành động nào đó để ngăn chận đà tiến bất hợp pháp của quân lính Bắc Việt. Thế nên, ông Hương bám lấy lập trường, vốn cho rằng việc ông trao quyền lại cho “Minh Lớn” là vi hiến. Bị đưa đẩy đến tình cảnh khó khăn như vậy, nhất định là ông phải phân vân giữa một bên là ước vọng lâu đời của ông về một Nam Việt Nam tự do, dân chủ và một bên là nỗi tuyệt vọng chán chường của ông trước tình hình tan rã nhanh chóng, do chỗ Mỹ không chịu can thiệp để Sài Gòn khỏi lọt vào tay CS.
Tổng Thống Hương là một con người rất nhạy cảm. Ông có thể rơi nước mắt trước những khó khăn có khả năng đem lại hậu quả tai hại cho dân tộc và đất nước ông. Có lần, ông đã khóc ngay trong hội đồng nội các. Lần cuối cùng tôi chứng kiến cảnh ông mủi lòng là khi tôi trở về Sài Gòn hồi tháng giêng năm 1973 để dự phiên họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (HĐANQG), chỉ một đôi ngày trước khi ký kết Hiệp Định Ba Lê. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu loan báo rằng hòa đàm đã đến giai đoạn mà Việt Nam Cộng Hòa không còn cách nào khác hơn là phải ký vào hiệp định mà Sài Gòn đã quyết liệt từ chối không chịu ký cho đến lúc đó, vì chính phủ Hoa Kỳ có thể sẽ ký một mình nếu cần. Biến cố đó có thể là dấu hiệu cho thấy bạn bè và đồng minh sẽ chia tay nhau. Ông Thiệu và chính phủ Nam Việt Nam sẽ phải tìm đồng minh khác. Lúc bấy giờ Cụ Hương không cầm được nước mắt và, bất hạnh thay, rồi đây ông lại có lý do để khóc lần nữa.
Ông Thiệu không cần phải giải thích cho thành viên của HĐANQG biết rằng Hiệp Định Ba Lê sẽ kết thúc việc Mỹ can thiệp ở Việt Nam và kết liễu chính phủ chống cộng ở Sài Gòn. Hiệp Định có những điều khoản quy định rằng chính phủ Sài Gòn có thể sẽ được thay thế bằng một chính phủ liên hiệp “không cộng sản”, một sự trá hình thô bạo để khoả lấp thế thống trị của Hà Nội. Thế là, cuối cùng, Hoa Thịnh Đốn đã quyết định lìa bỏ ý niệm coi Nam Việt Nam là “Tiền Đồn Thế Giới Tự Do” ở Đông Nam Á, một ý niệm mà có thời họ đã quyết tâm dựng lên cho bằng được. Đối với Hoa Kỳ, một Nam Việt Nam chống cộng không còn chút giá trị nào hết.
Xuyên suốt cuộc đời, ông Hương đã được coi như là một nhà yêu nước, một con người quốc gia, một thành viên của dân chủ và tự do. Ông đã đấu tranh liên tục cho những gì ông tin tưởng là đất nước của ông và cho Thế Giới Tự Do. Ông đã vào tù, ra khám không biết bao nhiêu lần, hăng say đấu tranh chống lại sự thống trị của Pháp và chế độ độc tài của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và đã sống nghèo khổ và bình dị suốt đời. Ông được kính trọng vì tính thanh liêm và lương thiện. Là một nhà giáo chuyển sang làm chính trị, ông là một bậc lão dễ mến đối với người miền Nam. Lúc bấy giờ ông Hương đã bảy mươi hai tuổi. Ông đã làm đô trưởng Sài Gòn hồi năm 1954 và làm thủ tướng hai lần, mỗi lần được vài tuần, vào những năm 1964-1965 và 1968-1969, trong mấy nội các dân sự của Sài Gòn. Cũng như nhiều người ở Nam Việt Nam và ở những nơi khác lúc bấy giờ, ông Hương không hiểu nguyên nhân nào khiến ông Thiệu từ chức, để lại cho ông cái chính phủ tan rả của Sài Gòn. Hơn nữa, cùng với đa số những người ở Sài Gòn, ông Hương khó hiểu tại sao, với một thế lực và một sức mạnh quân sự như thế, mà Hoa Kỳ lại có thể bỏ rơi người anh em và đồng minh Nam Việt Nam.
Liệu những người làm áp lực để ông Hương trao quyền lại cho “Minh Lớn” có chút hy vọng nào để tin tưởng rằng như thế Nam Việt Nam sẽ có cơ may tồn tại không" Liệu bằng cách nhượng bộ Bắc Việt, qua hình thức “hòa hợp hòa giải dân tộc” và “tự quyết”, ngụy trang dưới dạng “không cộng sản”, nhân danh tự do dân chủ, có làm cho người Việt ở Nam Việt Nam dễ thở hơn không" Đối với ông Hương thì không thể hy vọng như thế được. Điều đó vượt khỏi sự hiểu biết và sức tưởng tượng của ông. Hy vọng duy nhất còn lại cho ông và nhiều người khác ở Sài Gòn là chỉ còn có nước “hy vọng khơi khơi” không biết phải hy vọng điều gì, một thứ “hy vọng để mà hy vọng”.
Thử hỏi ông Hương còn có cách nào khác, ngoại trừ tuyệt vọng" “Minh Lớn” không có một lời tuyên bố nào có khả năng đem lại một chút hy vọng gì rõ ràng hay cụ thể. Ông đề cao cái khả năng tiềm tàng là có thể “nói chuyện” (một uyển ngữ của từ “mặc cả”) với “những người anh em” thù địch đã bao quanh Sài Gòn. Có khả năng “nói chuyện” với Hà Nội là “lợi thế” của chính khách Sài Gòn, những người tự cho mình là kẻ đối thoại mà Hà Nội có thể chấp nhận được. Chỉ cần một chỉ dấu thoáng qua của Hà Nội cho thấy có thể là như vậy, thế là nhân vật liên hệ có thể kể như trúng số độc đắc.


Hà Nội không bao giờ công khai nói ra là phía cộng sản sẽ chấp nhận “Minh Lớn”, nhưng họ đã khôn khéo hàm ý cho rằng ông ấy có thể là nhân vật đó, và ngẫu nhiên có thể hẹn gặp với bà Bình của Mặt Trận Giải Phóng (MTGP). Đại sứ Pháp và đại sứ Mỹ ở Sài Gòn quả quyết cho rằng “Minh Lớn” có thể làm điều đó. Họ biết chắc rằng Hà Nội sẽ không khi nào chịu thương thuyết một cuộc dàn xếp nếu ông Thiệu còn ngồi ghế tổng thống - thậm chí dù chỉ để tìm một thỏa hiệp để ngồi lại uống trà - và ít có hy vọng thương thuyết với ông Hương, một con người đang bị cho ra rìa.
Cụ Hương có thể đã nghĩ rằng cái gì “Minh Lớn” có thể làm được thì ông cũng có thể làm được, và còn làm tốt hơn, trong vấn đề đó. Ông không phải là một tướng lãnh quân đội đã từng đối đầu với những người anh em thù địch trên chiến trường như “Minh Lớn”. Mục đích, lý tưởng và hy vọng của ông dành cho đất nước và dân tộc Việt Nam lúc nào cũng cao cả và đáng kính, xét theo tiêu chuẩn đứng đắn và lịch sự. Ông nghĩ rằng có thể đạt được một giải pháp hòa bình qua thương thuyết, và cảm thấy rằng không có lý do gì mà ông phải bị loại ra khỏi cuộc tranh tài đó.
Là một con người nhiều tuổi, bệnh hoạn và nghèo nàn, ông Hương không bị thúc đẩy phải hy vọng nhiều cho bản thân. Nhưng ông nuôi dưỡng những lý tưởng được thiết tha ấp ủ suốt đời, lý tưởng tự do, dân chủ và tiến bộ. Có thể đây là những ý niệm trừu tượng, chớ không phải là những thực tế đã sống qua, được thu thập qua sách vở và nghiên cứu trong quá trình ông đã được đào tạo thành nhà giáo. Thực ra, ông không biết, thậm chí không nhìn thấy tận mắt, những điều đó ở những nơi khác, khi mà ông không được đi đây đi đó nhiều, vì mắt kém và sức khỏe mong manh. Tuy nhiên, ông rất yêu chuộng những lý tưởng đó.
Khi tôi bước vào văn phòng của Tổng Thống Hương thì thấy ông không ngồi ở bàn giấy trong văn phòng tổng thống của ông Thiệu trước kia, nhưng chỉ ngồi một mình tại một bàn họp ở phòng bên cạnh, dành cho HĐANQG, trên tường có nhiều bản đồ. Ông cố sức tựa tay lên cạnh bìa chiếc bàn dài và trống trơn. Cuộc diện kiến giữa Đại Sứ Martin và ông vừa chấm dứt - thực ra đó là lần cuối cùng hai người được dịp nói chuyện với nhau. Thông điệp của ông Martin làm cho ông Hương gần như sững sờ. Ông đã được ông đại sứ cho biết dứt khoát là ông đừng có mong gì Mỹ can thiệp để cứu vãn Sài Gòn, và con đường duy nhất còn lại cho ông là phải từ chức ngay để trao quyền lại cho “Minh Lớn”.
Nghe tiếng bước chân và tiếng nói của tôi, ông ngẩng đầu lên. Tôi hỏi: "Thưa tổng thống vẫn bình an" Tôi vừa từ Ba Lê về tới và đến yết kiến tổng thống ngay đây." Ông Hương trả lời với một giọng điệu mệt mỏi: "À, Phong, mạnh giỏi không em" Ba má em như thế nào" Khá lâu rồi qua không được gặp hai ông bà. Nhờ em chuyển đến hai ông bà những lời thăm hỏi của qua." Ông chìa bàn tay run run, và tôi nắm lấy với hai tay trong niềm cảm mến xâu xa, tìm cách chuyền qua cho ông một chút nào an ủi và khích lệ, qua sự tiếp xúc của những bàn tay.
Hai ngày trước đó ở Ba Lê, tôi đã nhận được một điện thư yêu cầu tôi trở về Sài Gòn. Đó là một bức điện khác thường, không phải lời của một tổng thống triệu hồi một quốc vụ khanh về để tham khảo. Điện thư chỉ nói một cách đơn thuần: "Hương cần gặp Phong". Ông Hương đã gởi bức điện thư đó cho tôi chỉ một ngày sau khi ông đã thành lập nội các, mà Thủ Tướng là Nguyễn Bá Cẩn, ngay sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ông Cẩn là một công chức chuyên ngành được đào tạo dưới thời Tổng Thống Diệm, đã làm Chủ Tịch Quốc Hội trong nhiệm kỳ của ông Thiệu.
Có sự trùng hợp là tôi đã tự ý quyết định trở về nên đã đăng ký chuyến bay của tôi trước đó một tuần. Một trong những người mà tôi đã điện thoại cho biết rằng tôi sẽ trở về Việt Nam là ông David Anderson, Đại Sứ Úc tại Pháp, người bạn cố cựu của tôi. Chúng tôi quen biết nhau lúc ông ấy làm đại sứ ở Sài Gòn hồi năm 1965. Ông chạy vội đến văn phòng tôi và khuyên tôi nên xét lại, đồng thời cũng bày tỏ thiện cảm và mối quan tâm liên quan tới tình hình.
Chủ đích của tôi trong chuyện trở lại quê nhà là để gần cha mẹ già và gia đình tôi. Vì là chỗ thân thiết với gia đình nên tôi cũng nghĩ đến ông Hương. Ông là người bạn thân của cha mẹ tôi trên năm mươi năm qua. Giờ đây, khi tôi đang ở bên ông, và vì tôi là một trong những người hiếm hoi đã trở về trong khi bao nhiêu người khác đã ra đi, dường như Cụ Hương cảm thấy cần phải hỏi tôi: "Này, có còn chút hy vọng nào không"" Và tôi phải nói lên điều mà chắc chắn ông cũng nghĩ đến: "Dạ thưa tổng thống, chẳng còn hy vọng gì nữa."
Rồi chúng tôi nói lang thang, chuyện nọ xọ chuyện kia. Liên tưởng tới chuyện vừa gặp ông đại sứ Hoa Kỳ, ông bắt đầu nói về người Mỹ. Rồi nói đến người Nga, người Trung Quốc và người Pháp - và nói rất nhiều về người Pháp. Rõ ràng là ông rất khó chịu với cung cách bất hợp hiến của việc ông “trao quyền” tổng thống cho “Minh Lớn”. Ông nói một cách mỉa mai: "Chức vụ tổng thống đâu phải là chiếc khăn tay mà trao qua trao lại cho người ta hỉ mũi..."
Tôi cố nén để khỏi đáp lại rằng mối quan tâm “hợp hiến” của ông là điều mà thiên hạ đâu có cần nghĩ tới trong một tình hình gay cấn. Dĩ nhiên là đề tài đàm đạo của chúng tôi có tính cách nghiêm trang và những giải pháp có tính quan trọng, nhưng không làm nên đề tài lịch sử. Người ta chỉ ghi nhận những gì được Hoa Thạnh Đốn, Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Hà Nội và Ba Lê nói và làm - chẳng chút nào quan tâm đến những gì ở Sài Gòn. Trong lãnh vực ngoại giao cao cấp quan trọng, Nam Việt Nam phải tan biến đi như một chuyện hoang đường. Đó là thực tế trong chính trị thế giới.
Như để lôi hai chúng tôi ra khỏi giây phút trầm ngâm, một nhân viên bước vào trình một điện thư của tòa đại sứ Việt Nam ở Đài Loan. Không đọc được vì mắt kém, ông Hương đưa cho tôi mà không nói năng gì hết. Điện thư cho biết Bộ Trưởng Ngoại Giao Vương Văn Bắc đã tới Đài Loan và xin từ chức. Có phải là một cử chỉ lịch sự hay là một cách khôi hài mỉa mai" Dẫu sao đi nữa thì điều đó tiêu biểu một cách chắc chắn cho sự tan rã công khai và cho đợt xuống tàu ồ ạt để đi... về đâu" Dĩ nhiên là đến một nơi nào đó ở hải ngoại.
Cuộc hội kiến tiếp tục, ông Hương lập đi lập lại nhiều lần, thì thầm gần như là nói cho riêng ông, nhưng tôi cũng nghe thấy được, như một lời than thở: "Chẳng còn hy vọng gì được nữa, phải không"" Không muốn để cho ông cảm thấy quá cô đơn, mỗi lần như thế tôi cũng lập lại: "Vâng, không hy vọng gì nữa đâu, thưa Tổng Thống." Khi ông lầm bầm câu hỏi đó đến lần thứ tư, tôi nhất định đáp lại chậm rải qua một giọng cứng rắn hơn để cho ông chấm dứt tình trạng hoang mang: "Dạ không. Không còn bất cứ hy vọng nào nữa. Nhưng còn một vài chuyện phải làm. Nhưng không phải là tổng thống hay tôi phải làm. Một người nào khác sẽ làm. Tổng thống đừng bận tâm. Tổng thống nên đi nghỉ thôi. Những người khác sẽ hân hoan làm điều đó." (Còn tiếp...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.