Truyện ngắn chọn lọc: Bất Diệt - Yiyun Li - Dịch giả: Trần Viết Minh-Thanh
LGT (của dịch giả): Yiyun Li lớn lên ở Thượng Hải. Cô sang Hoa Kỳ năm 1996, theo học Y Khoa, hai năm sau cô bắt đầu viết truyện ngắn. Sau khi xong bằng Cao học, ngành miễn nhiễm tại đại học Iowa, Yiyun Li ghi danh vào chương trình viết văn, và được cấp bằng MFA. Truyện ngắn của cô đã được đăng trên các báo The New Yorker, The Paris Review. Tập truyện ngắn đầu tay, “A Thousand Years of Good Prayers” bằng Anh ngữ, đã được giải thưởng truyện ngắn quốc tế Frank O’Connor, mà hội đồng trao giải có lời nhận xét: “Đây là tập truyện ngắn, đầy tính nhân bản. Tác giả đã chứng tỏ được ngòi bút mạnh mẽ, nắm vững những yếu tố làm cho câu truyện thành công, phong cách hành văn giản dị, các chi tiết bất ngờ, sáng tạo”. Truyện ngắn sau đây - Immortality - là một trong hai truyện ngắn được đề cao nhất trong tập truyện "A Thousand Years of Good Prayers".
*
Chuyện của ôn, cũng như chuyện của bất cứ ai bắt đầu từ ngày xửa, ngày xưa, thuở chúng ta chưa chào đời. Trải qua bao triều đại, tỉnh chúng tôi cung cấp cho hoàng gia những bầy tôi tin cậy nhất. Họ có danh xưng là thái giám, nhưng với lòng tôn kính, chúng tôi gọi họ là đại phụ, thân mật hơn là ôn. Không một ai là con cháu giòng chính từ các ôn, nhưng nếu đi ngược lại dòng máu trong họ thì các ôn là bác, chú, anh, em, con chú con bác đã từ bỏ giống nam của mình, để tên của giòng họ được tồn tại. Đó là thế hệ của những đứa bé trai, vào khoảng bảy, tám tuổi, được chọn bị thiến - tẩy uế, người ta gọi vậy - rồi được đưa vào hoàng cung tập sự, phục dịch, hầu hạ hoàng đế và hoàng gia. Đến tuổi mười ba hay mười bốn, các ôn bắt đầu hưởng lương, rồi chắt chiu dành dụm những đồng tiền bằng bạc gởi về cho song thân. Các đồng bạc đó được cất kỹ vào trong một cái rương, cùng với một bao lụa có bộ dịch hoàn của ôn được bảo tồn bằng lá cây. Khi các anh em trai của ôn đến tuổi lập gia đình, bố mẹ rút bạc từ rương ra, tài trợ cho phí tổn cưới vợ, các bà vợ này sẽ sanh con trai, những đứa con lớn lên mang giòng họ gia đình, rồi tiếp tục lấy vợ, sanh con; sẽ có đứa bé trai được chọn vào hoàng cung, trở thành những đứa trẻ được tẩy uế. Năm tháng trôi qua. Đến lúc đầu gối lung lay, không còn có khả năng phục dịch hoàng gia nữa, các ôn rời hoàng cung, được cháu trai mời về sống trong gia đình. Chẳng còn điều chi để bận tâm nữa, các ôn ngồi suốt ngày hưởng ánh nắng mặt trời, tay vuốt ve con mèo đem theo từ hoàng cung về, mập và chậm như chủ, mắt theo dõi những con chó đực rượt đuổi các con chó cái. Ngày các ôn lìa đời, đám tang là biến cố huy hoàng nhất của tỉnh: sáu mươi bốn Tao sư, bận áo xanh và xám, nhảy múa trong bốn mươi chín ngày liền, không cho tà ma nào dám xâm nhập thân thể. Sau bốn mươi chín ngày, việc thiêng liêng cuối cùng là lúc bao lụa có bộ dịch hoàn chứa giống nam héo tàn của ôn được đặt vào quan tài. Giờ đây bộ phận thiếu sót đã được nhập lại với cơ thể, hồn các ôn, không còn luyến tiếc chi nữa, đi đến một nơi tốt đẹp hơn thành phố chúng tôi ở.
Đó là câu chuyện của các đại phụ tỉnh chúng tôi. Qua nhiều triều đại, các ôn là thành viên tin cậy nhất của hoàng gia. Thái giám chăm sóc các công chúa, cung tần trong những việc riêng tư, thầm kín nhất mà không làm vẩn đục giòng máu quý phái với những ước muốn xấu xa, hèn hạ của đàn ông. Thái giám phục dịch hoàng đế và các hoàng tử nhẹ nhàng, thanh lịch, không như các cung nữ, đầu luôn tơ tưởng cơ hội quyến rũ hoàng đế hay các hoàng tử với sắc đẹp rẻ tiền của mình. Các đại phụ không hề là mối đe đọa cho các hoàng hậu. Tuy nhiên cũng có những đồn đại, rằng thái giám là đồ chơi cho các vị hoàng tử trẻ, lúc các vị chưa đến tuổi được có cung tần, rồi lại có những chuyện xì xầm về các thái giám bất hạnh bị chết đuối, bị thiêu, bị đánh chết hay bị chặt đầu vì những lỗi lầm nhỏ nhặt nhất, thế nhưng chúng tôi biết, những câu chuyện như thế chỉ là những bịa đặt nhằm bôi nhọ thanh danh thái giám. Chúng tôi tin những gì mắt trông thấy, các mộ bia khắc tuyệt kỹ trong nghĩa trang, các bức ảnh lồng trên vải lụa thêu trong quyển ảnh của giòng họ. Chúng tôi vô cùng yêu thương và mang ơn các đại phụ. Nếu không có các ôn, thì chúng tôi là ai, những người được sanh ra trong thành phố không tên"
Thế kỷ qua, tăm tiếng của tỉnh chúng tôi mờ nhạt đi. Nhưng trước hết xin kể hầu quý vị chuyện của một cậu thanh niên trước khi sang đề tài về sự sụp đổ của các ôn qua quá trình lịch sử. Theo truyền thống, những cậu bé được gởi vào hoàng cung không thể là con trai duy nhất của gia đình, bởi vì phận sự thiêng liêng nhất của con trai vẫn là tiếp nối giòng dõi. Thế mà đại phụ vĩ đại nhất lại là con trai độc nhất của gia đình ông. Cha ông mất sớm trước khi cụ có thì giờ trồng thêm hạt giống vào bụng bà vợ. Gia đình không có chú hay bác gởi tiền về từ hoàng cung, cho nên bà vợ góa và cậu con trai sống vất vả. Lúc cậu bé mười tuổi, sau một buổi cãi vã với những đứa bé hàng xóm, có đứa khoe là chú nó nhận cả thỏi vàng từ tay hoàng đế, cậu vào chuồng bò, tự tẩy uế mình với sợi dây và cái liềm. Huyền thoại kể rằng cậu đi qua phố, tay cầm bộ dịch hoàn đẫm máu, miệng la to cùng dân hai bên đường đang thảng thốt nhìn cậu bằng cặp mắt xót thương: “Rồi các ông bà sẽ biết, nay mai tôi sẽ là quan phục vụ đắc lực nhất của Hoàng đế.” Mẹ cậu, không sống nổi với niềm hổ thẹn gia đình không có con cháu nối dõi tông đường, nhảy vào vực giếng tự vẫn. Hai mươi năm sau, người con trai trở thành hoạn quan uy quyền nhất hoàng cung, dưới trướng có hai ngàn tám trăm thái giám, và ba ngàn hai trăm cung nữ. Không có anh em trai để gởi tiền về, lúc về hưu, Ôn là người giàu có nhất trong vùng. Ôn thuê người cải táng mộ bà thân mẫu trước chôn trong một quan tài rẻ tiền, làm lại cho bà một đám tang thứ nhì, huy hoàng lộng lẫy nhất vùng. Đó là tháng thứ chín của năm 1904, mà tới ngày nay, những người già trong tỉnh vẫn còn kể đến những chi tiết của đám táng: quan tài vĩ đại, đẽo từ gỗ đàn hương, chồng thỏi vàng, rương quần áo lụa, hộp ngọc thạch... tất cả được chôn cùng, để bà mẹ quá cố đủ tiêu dùng tới kiếp sau. Điều đáng nể nhất là ôn đã mua bốn cô gái nhỏ trên núi, nhà nghèo, tất cả đều mười hai tuổi. Bốn cô được bận quần áo lụa sa-tanh, thứ mà họ chẳng bao giờ mơ ước rớ tới, rồi các cô được cho ăn một chén thủy ngân, chất thủy ngân sẽ giết họ tức thì, giữ được làn da hồng hào tươi tắn suốt trong thời gian kiệu của họ đi trước quan tài, diễn hành qua phố tỉnh.
Chuyện của Ôn hoạn vừa kể là trang sử huy hoàng nhất của tỉnh, tựa như tràng pháo bông tráng lệ tỏa trên bầu trời trước khi bóng tối ập tới. Chẳng bao lâu, triều đại cuối cùng bị đạp đổ bởi cộng hòa. Hoàng đế bị đuổi khỏi cấm thành, theo sau là những nô bộc trung thành nhất, thế hệ cuối cùng của các thái giám. Vào thập niên ba mươi, họ sống nghèo đói trong những ngôi đền chung quanh cấm thành. Những người khôn hơn thì đỡ khổ nhờ trưng bày thân thể họ cho nhà báo ngoại quốc và cho du khách, họ được thêm tiền khi trả lời những câu phỏng vấn, và nhất là nếu có chụp hình.
Qua một nền cộng hòa ngắn ngủi, các tướng lãnh tranh quyền, hai thế chiến, cả hai lần chúng tôi đứng vào phe chiến thắng, thế nhưng chúng tôi chẳng thắng được gì! Sau nội chiến, chúng tôi thấy rạng đông của thế giới cộng sản. Ngày mà nhà độc tài tuyên bố cộng sản chiến thắng trên đất nước, tại tỉnh lị chúng tôi, một chàng thợ mộc trẻ rước vợ mới cưới về nhà.
“Họ nói là chúng ta có một cuộc đời mới kể từ ngày hôm nay”. Cô vợ trẻ bảo chồng, tay chỉ cái loa trên mái nhà.
“Mới hay cũ, đời sống vẫn thế,” anh chồng trả lời vợ. Anh leo lên giường làm tình với nàng, mắt nhắm đê mê, trong khi đó cái loa vẫn phát thanh bài hát mới, giọng nam và nữ lập đi, lập lại những lời hát...
Cậu con trai của hai người được thai nghén giữa tiếng hợp xướng “Cộng Sản thật vĩ đại, thật vĩ đại, thật vĩ đại...” Trên đài phát thanh, bài hát vang lên, ngày này qua ngày nọ, người mẹ trẻ hát theo, tay sờ bụng bầu và cẩn thận cắt hình ảnh nhà độc tài từ báo chí. Dĩ nhiên chúng tôi không gọi ông là độc tài. Chúng tôi gọi ông là Cha của dân tộc, vị cứu tinh, ngôi sao Bắc đẩu của đời chúng tôi, mặt trời không bao giờ tắt của kỷ nguyên. Như hầu hết các đàn bà cùng thế hệ, người mẹ không biết chữ. Nhưng không như mọi người đàn bà khác, chị thích xem báo, và chị gìn giữ tất cả hình ảnh của nhà độc tài trong một tập sách dày cộm. Chị quả thật là người đàn bà thông minh nhất thời ấy, vì chẳng có người đàn bà nào khác nghĩ đến chuyện ngắm hình nhà độc tài trong lúc đang mang bầu. Có người tin rằng lúc mang thai, nếu nhìn mãi hình ảnh nào đó, đứa bé lúc chào đời sẽ có nhiều cơ hội giống khuôn mặt đó. Mấy năm trước, đàn bà có bầu thích nhìn một con búp bê, mang một cái tên ngoại quốc, Shirley Temple. Chục năm sau, các bà có thai thích nhìn khuôn mặt các tài tử màn bạc, nhưng vào thời điểm đó nhà độc tài là siêu sao duy nhất trên các cơ quan truyền thông, vì thế, người mẹ chỉ có ngắm mặt nhà độc tài mười tháng liền trước khi đứa bé chào đời.
Đứa bé trai ra đời với khuôn mặt nhà độc tài, một điều kỳ diệu mà lúc đầu chúng tôi chẳng nhìn thấy. Mười năm đầu đời của đứa bé, chúng tôi tránh nhìn mặt nó, bởi lẽ ai cũng e ngại sẽ thấy khuôn mặt người cha quá cố. Anh là một người đàn ông siêng năng, tử tế với hàng xóm và đối xử tốt với vợ. Chúng tôi chẳng bao giờ ngờ rằng anh sẽ là kẻ thù của quốc gia cộng sản mới thành lập. Thế nhưng có rất nhiều chứng nhân, không phải một mà là cả một quán rượu.
Anh đã bị đưa lên đoạn đầu đài vì lời phê bình của chính mình về anh hùng và con lợn cái. Đến lúc ấy, chúng tôi đã ý thức được quyền uy của nước cộng sản đàn anh. Trong quốc gia đàn anh đó, còn gọi là Liên Sô, đàn bà được khuyến khích sản xuất nhiều con cho chính nghĩa cộng sản, những người đàn bà sanh được một số con tới tiêu chỉ nào đó, được gọi là các bà mẹ anh hùng. Nước chúng tôi cùng đi trên con lộ lớn của thiên đường, thế nên nhà độc tài quyết định theo cùng chính sách.
Anh thợ mộc trẻ, lúc đó đã ngà ngà say, bông đùa cùng các bạn rượu: “Các bà mẹ anh hùng" Con lợn cái của tôi mới đẻ mười con lợn con. Thế có nên cho nó chức vị đó không"”
Thật là một tấn công hiểm ác vào chính sách nhà độc tài. Anh thợ mộc bị xử tử sau phiên xử của tòa án nhân dân. Tất cả mọi người có mặt trừ chị vợ, mỗi người trong chúng tôi dơ cao tay lên, hô hào chiến thắng của nhân dân, tiếng nói đồng loạt át đi tiếng rên rỉ của người vợ trên giường đẻ. Chúng tôi gào thét khẩu hiệu cùng lúc viên đạn bắn vào đầu người đàn ông trẻ. Chúng tôi hát các bài ca cách mạng khi thân thể anh diễn hành qua những con phố. Cuối cùng, lúc giọng nói bắt đầu khàn đi vì kiệt sức, thì chúng tôi mới nghe tiếng khóc chào đời của thằng bé, rống lớn, đau khổ, và trong một thời gian, thật khó cho chúng tôi có thể nhìn thẳng vào mặt nhau. Chúng tôi đã làm gì cho người mẹ và đứa bé" Phải chăng người đàn ông trẻ đã chết từng là anh em của chúng ta"
Chúng tôi cũng không biết là cùng thời điểm, có một nhà trí thức tại thủ đô đã bị bỏ tù, bị tra tấn cho tới chết vì ông dám tiên đoán sự tăng trưởng kinh khủng của dân số, và ông đã kêu gọi nhà độc tài thay đổi chính sách. Chúng tôi cũng không hề biết trong một buổi gặp gỡ với đàn anh Moscow, nhà độc tài tuyên bố rằng nước chúng tôi chẳng hề sợ một thế chiến hay chiến tranh nguyên tử. Ngài nói: Mỹ cứ dội nguyên tử lên đầu chúng tôi đi. Chúng tôi có tới năm trăm triệu dân. Dù nửa dân số có chết đi chăng nữa, Trung quốc vẫn còn hai trăm năm mươi triệu dân, hai trăm năm mươi triệu người dân còn lại sẽ sản xuất hai trăm năm mươi triệu dân khác trong một thời gian không bao lâu.
Lời nói của ngài ở trên được đăng lên báo, đọc xong máu chúng tôi nóng lên. Nhiều năm kế tiếp, mọi người ngước mắt nhìn trời, đợi chờ máy bay Mỹ dội bom lên đầu, để có dịp tỏ bày lòng can đảm và trung thành đối với nhà độc tài, chứng minh lời nói của Ngài.
Thằng bé lớn nhanh như bụt măng. Người mẹ già đi còn nhanh hơn bội phần. Sau cái chết của anh chồng thợ mộc, theo lời yêu cầu của chị, Ủy Ban Cách Mạng giao cho chị công việc quét đường. Mỗi sáng sớm, chúng tôi nằm trong chăn, nghe tiếng chổi quét xào xạc. Chị trở thành góa bụa năm mười tám tuổi, người đàn bà góa trẻ đẹp, tất nhiên có nhiều chàng độc thân tơ tưởng tới trên cái giường đơn độc của họ. Thế nhưng không người nào đề nghị lấy chị làm vợ. Ai mà muốn lấy vợ góa của một tên phản cách mạng, để rồi suốt cuộc đời phải lo lắng có ngày bị tố là đồng tình với một kẻ đứng bên phía trái của lề đường" Hơn nữa, dù rằng nhà độc tài đã dạy rằng trong quốc gia mới, đàn ông và đàn bà ngang hàng nhau, chúng tôi vẫn tin là đàn bà góa chồng mà tái giá là lòng vẫn còn đĩ thõa. Niềm tin đó được chính nhà độc tài xác nhận, khi báo đăng lời ngài phê bình cùng một thân cận, mà người này về sau trở thành kẻ thù của nhân dân: “Người đàn ông không thể nào che dấu tính phản động sẵn có của mình, cũng như người đàn bà góa không thể nào che đậy được niềm khát khao được ân ái.”
Thế rồi người đàn bà góa tàn úa trước mắt chúng tôi. Khuôn mặt chị càng ngày càng tái nhợt đi, cặp mắt khô dần. Đến năm cậu bé lên mười, chị chẳng khác gì một bà già sáu mươi. Không một người đàn ông độc thân nào còn đặt mắt vào khuôn mặt của chị.
Thằng bé lên mười năm bắt đầu nạn đói. Ba năm trời trước đó, chúng tôi không làm gì hơn là hát những bài ca thiên đường cộng sản và thề sẽ giải phóng tầng lớp lao động đau khổ khắp thế giới. Nông dân và công nhân ngừng làm việc cực nhọc, dành toàn thời giờ nặn óc soạn một bài thơ nữa, hăng hái tranh đua là nhà thơ vô sản hay nhất. Mọi người tới trung tâm tỉnh bàn luận chiến lược làm thế nào chinh phục thế giới dưới sự lãnh đạo của nhà độc tài. Nạn đói đến bất ngờ, lúc mọi người không có tí chuẩn bị nào. Tất cả ngoan ngoãn lắng nghe những lời động viên của nhà độc tài trên loa phát thanh. Ngài kêu gọi người dân hãy buộc thắt lưng lại, hy sinh cho tương lai của cộng sản, và người người vui vẻ bấm thêm lỗ vào đai lưng quần để thắt bụng cho chặt hơn. Đến năm thứ ba của nạn đói, nhà độc tài nói trên loa phát thanh: Hãy hủy diệt chim sẻ và chuột, chúng là những tên ăn cắp đã cướp đi thực phẩm chúng ta và đem nạn đói tới.
Giết chim sẻ là một sự kiện vui vẻ nhất trong ba năm dài của nạn đói. Sau nhiều tháng ăn cháo lỏng và rễ cây, sáng ngày giết chim sẻ và chuột, mỗi người được ăn hai bánh bao từ nhà ăn thành phố. Ăn xong, chúng tôi leo lên mái nhà và bắt đầu khua chiêng trống theo lệnh của Ủy Ban Cách Mạng. Từ mái nhà này qua mái nhà nọ, nhịp điệu vang dội đuổi các con chim lên trời cao. Buổi sáng, buổi trưa, mọi người chơi, theo ca, nếu có một con chim nào toan nghỉ trên cành cây, nó bị đuổi ngay bằng những cây tre dài, đầu buộc lá cờ đầy màu sắc. Tới chiều, quá hãi hùng và kiệt sức, chim sẻ rơi như mưa bom. Trẻ con, trang hoàng quanh bụng bằng chim sẻ, chạy khắp nơi, gom góp thêm những con chim cho buổi ăn tối.
Thằng bé lén nhét một con chim sẻ vào tay áo, bị một tên lớn hơn chụp tay, la to: “Nó ăn cắp tài sản nhân dân”.
“Mẹ tôi đang đau. Bà cần phải ăn”, thằng bé nói.
“Này thằng kia, mẹ mày cần thứ chim khác, con ạ”, tiếng nhạo báng của một gã đàn ông. Đám đông phá ra cười. Mấy cái bánh bao trong bụng và những con chim sẻ trong giỏ làm chúng tôi vui vẻ.
Thằng bé đăm đăm nhìn gã đàn ông một lúc, rồi bỗng húc đầu vào bụng gã.
“Đồ chó đẻ”, gã la lên, và choàng tới bóp hạ bộ thằng bé.
“Đập thằng phản cách mạng một trận đi,” người khác la to, thế là chúng tôi nhào tới thằng bé, tay đánh, chân đá. Nạn đói làm rã rời thân thể chúng tôi, và đây là cơ hội giải tỏa cơn giận không tên.
Bà mẹ nhào vào đám đông, cố gắng đẩy chúng tôi ra. Sự có mặt của bà làm cho chúng tôi càng điên tiết với những cú đấm đá vào người thằng bé. Có vài người đã bắt đầu lượm gạch và đá, sửa soạn ném vào người nó. Những người khác thì nghiến răng, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống nó.
“Các người hãy nhìn kỹ vào mặt nó. Kẻ nào dám đụng vào người nó, tôi sẽ kiện cho tới cùng vì đã dám xâm phạm lãnh tụ vĩ đại”, người mẹ la hét như một mụ điên.
Đám đông tê cứng lại, trố mắt nhìn vào mặt thằng bé. Dù với khuôn mặt sưng vù, mắt bầm tím, không ai có thể nhầm được đó là khuôn mặt của nhà độc tài, đẹp trai, ngang tàng, như trong các quyển sách kể lại tuổi trẻ anh hùng của ngài. Thằng bé đứng lên, lết tới mẹ nó. Chúng tôi hãi sợ trố mắt nhìn, không ai dám làm gì cả dù nó khạc đờm đầy máu vào chân chúng tôi.
“Hãy nhớ kỹ khuôn mặt này, một ngày nào đó các người phải trả giá tương xứng”. thằng bé nói. Nó lượm vài con chim sẻ và bỏ đi với mẹ nó. Hai mẹ con đỡ nhau như một đôi vợ chồng.
Mấy năm liền chúng tôi phân vân, chẳng biết là điều may mắn hay là một tai ách với một khuôn mặt giống in nhà độc tài sống giữa chúng tôi. Thằng bé và mẹ nó được xem như một gia tài quý, dễ vỡ, không một ai trong chúng tôi dám hé môi cho người ngoài biết.
“Có thể là một điều bất hạnh”, các cụ già cảnh cáo, rồi họ kể câu chuyện của những ôn hoạn chẳng may trùng tên với hoàng đế, nên bị vứt vào miệng giếng. “Có những điều không được phép trường tồn như là bản đúc”, các cụ kết luận.
Thế nhưng chẳng ai dám nói một lời xúc phạm đến khuôn mặt thằng bé. Càng lớn nó càng giống nhà độc tài. Những lần chạm mặt nó ngoài đường, bỗng dưng thấy ấm lòng, tưởng như có ngài sống lẫn với chúng tôi. Đó là thời gian mà nhà độc tài là điều còn vĩ đại hơn cả thế gian. Có những bà nội trợ mù chữ dùng báo lót tường, chẳng may dán ngược các tựa báo có tên nhà độc tài, và vì thế bị xử tử. Có phụ huynh của học trò lớp một viết sai tên Ngài, bị gởi đi cải tạo. Với thằng bé sống giữa chúng tôi, mọi người có cảm giác như đang đi trên phiến đá mỏng mà bên dưới là vực nước sâu thẳm. Chúng tôi sống trong âu lo. Với khuôn mặt như vậy, mà không tỏ đầy đủ lòng tôn kính thì có thể bị hiểu là tận đáy lòng thầm kín có nuôi mối hận ghét ngài. Mặt khác nếu tôn kính quá đáng, thì có thể bị xét là không biết phân biệt giữa giả và thật, đã tôn thờ sai thần tượng. Trong trường học, thầy giáo không dám chỉ trích thằng bé dù nhỏ nhẹ. Trò chơi nào có nó tham dự, phe không có thằng bé sẵn sàng chịu thua. Sau khi nó tốt nghiệp trung học, Ủy Ban Cách Mạng họp mấy tuần liền để bàn thảo một công việc xứng đáng cho người có khuôn mặt như vậy. Không có một việc làm nào trong tỉnh có thể giao cho hắn để lòng người được an tâm. Cuối cùng, chúng tôi đi đến một giải pháp hay nhất cho vấn đề - bầu anh làm trưởng ban cố vấn Ủy Ban Cách Mạng.
Ngày nhà độc tài qua đời, dân tụ họp tại trung ương thành phố, khóc như trẻ mồ côi. Trên máy truyền hình độc nhất của tỉnh, cả nước cùng tru tréo với chúng tôi. Suốt ba tháng trời, mọi người đeo băng tang nơi cánh tay áo, dù đang làm việc, hay đã lên giường ngủ. Suốt sáu tháng trời, mọi thú vui đều bị cấm ngặt. Cả đến một năm sau ngày Ngài mất, chúng tôi quay mặt đi, kinh tởm những phụ nữ bụng bầu, biết rõ rằng các mụ đã không thành thật trong thời gian tang chế. Cha của mấy đứa nhỏ đó cũng chẳng được ai kính trọng nữa.
Đây là thời gian khó khăn cho chàng trai. Mỗi lần trông thấy mặt anh, nhiều người đã bật khóc nức nở, và anh ta cũng phải khóc theo cùng. Có lẽ anh cũng mệt mỏi. Cả một năm anh nằm nhà, khi chúng tôi thấy anh trở lại, tay cầm một vali nhỏ, thì trông anh già đi nhiều so với cái tuổi hai mươi tám.
“Có chuyện gì vậy anh"” chúng tôi lo lắng hỏi. “Anh đừng buồn quá mà tổn hại sức khoẻ".
“Cám ơn, nhưng tôi khoẻ lắm”, anh thanh niên trả lời.
“Anh đi xa à"”
“Vâng tôi có việc đi xa”
“Đi đâu vậy”, lòng nhói đi vì đau. Mất anh trong giờ phút này cũng giống như mất nhà độc tài một năm trước đây.
“Việc chính trị quốc gia”, chàng thanh niên trả lời với nụ cười bí mật.
Sau khi anh được chở đi trong một chiếc xe hơi sang trọng, có màn cửa (chiếc xe hơi duy nhất mà phần đông dân tỉnh thấy lần đầu tiên trong đời) thì chúng tôi mới biết tin anh tới thủ đô để dự phần trong việc chọn lựa người thủ vai nhà độc tài. Nhiều ngày chúng tôi bàn cãi những danh từ mới như vai trò và chọn lựa. Cuối cùng điều chúng tôi đồng ý là anh ta sẽ trở thành một người vĩ đại.
Lúc bấy giờ, không còn có anh nữa, bà mẹ trở thành nguồn tin tức duy nhất. Mỗi bận có người hỏi thăm về con trai, khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên và bà lại kể chuyện mình đã nhìn vào ảnh nhà độc tài ngày đêm, trong lúc bào thai lớn lên trong bụng. “Cũng y như cậu ấy là con của Ngài”. Bà nói. “Vâng, tất cả chúng ta đều là con của lãnh tụ, nhưng anh quả là đứa con tốt nhất”.
Bà mẹ thở ra một cái, hài lòng. Bà nhớ lại những năm đầu tiên khi cậu con mới chào đời, những người đàn bà cùng lứa tuổi với bà cũng lần lượt có con, lần lượt treo bằng tưởng thưởng “Bà Mẹ anh hùng” trên tường, họ đi ngang qua bà mặt vênh vênh, tự kiêu. Rồi thời gian sẽ cho biết ai mới thật là Mẹ anh hùng, bà nghĩ thầm, miệng mỉm cười tự đắc.
Bà đưa tin về cậu con, mỗi chi tiết mở cửa một thế giới mới. Anh được đi trên tàu lửa hạng sang tới thủ đô, rồi cùng với các thí sinh khác được ở trong một khách sạn sang trọng, được dẫn đến bảo tàng viện, nơi nhà độc tài yên nghỉ, để học, sửa soạn cho cuộc tranh tài.