Từ Việt Nam Tới Trung Đông Qua Những Cái Bắt Tay:
DÀN XẾP HÒA BÌNH VÔ DUYÊN NHẤT TRONG LỊCH SỬ CẬN ĐẠI
Dàn xếp hòa bình cho Bắc Hàn và Nam Hàn.
HỒ ĐINH
(Bài được lưu trử trong website : www.huongvebinhthuan.orgvà thuvientoancau.com)
Sự kiện Tổng Thống Đại Hàn Kim Đại Trọng (Kim Dae Jung) đã bắt tay với Chủ Tịch Bắc Hàn Kim Nhật Thành II (Kim Jong II), trong cái gọi là Hội nghị thượng đỉnh Bình Nhưỡng , vào hai ngày 13-15/6/2000 để chấm dứt hận thù của dân tộc Cao Ly, kéo dài từ năm chia cắt 1948 tới nay. Qua cái bắt tay được gọi là lịch sử trên, thế giới nhìn vào bằng cặp mắt hoài nghi không mấy ai tin tưởng rằng hoà bình thật sự sẽ trở về trên bán đảo Triều Tiên.
Điều này cũng dễ giài thích vì chuyện gì có liên quan tới cọng sản trong đó có Trung Cộng,Việt Cộng,Bắc Hàn,Cu Ba.. là phải có lừa bịp, xảo trá, tham nhũng, cướp của giết người mà phần thua thiệt luôn luôn thuộc về những kẻ lương thiện. Lịch sử đã chứng minh nhều trong quá khứ nhưng nổi bật nhất vẫn là bi kịch hòa bình Việt Nam giả mạo, được ký kết tại Ba Lê ngày 27-1-1973, giữa Hoa Kỳ và cọng sản Bắc Việt, sau cái bắt tay của Kissinger-Lê Đức Tho, từ đó tới nay đã trở thành những trận cười khắp thế giới không dứt.
Gần nhất là ngày 13-9-1993 cũng diễn ra cái bắt tay lịch sử tại thủ đô Hòa Thịnh Đốn, giữa Thủ Tướng Do Thái là Yitz Rabin và Chủ Tịch Palestine Yasser Arafat, để ký kết hoà bình. Nhưng tất cả đều là những chuyện làm vô duyên nhất của người Mỹ trong lịch sử cận đại. Tại Việt Nam, ngay sau khi cái bắt tay của các phe nhóm còn nóng hổi, thì cọng sản Bắc Việt đã xua quân xâm lăng rồi cưởng chiếm VNCH.Tại Trung Đông, tình trạng chém giết giữa hai phiá sau cái bắt tay đó, càng ghê rợn và khủng khiếp, tiếp diễn mãi tới hôm nay, qua các vụ Palestine ôm bom tự sát để chết chung với kẻ thù và Do Thái trả đủa lại bằng đạn pháo, xe tăng, tàn sát dân chúng không nhân nhượng.
Nói như tờ New York Times ngày 4-11-1995 qua cái chết của Thủ Tướng Rabin, thì ' chỉ với một cái bắt tay, số phận của một dân tộc đã đưọc định đoạt.. ' ' Người xưa chìa tay ra khi gặp một kẻ lạ, để chứng minh sự trong sạch, thành thật của mình không có một thứ vũ khí nào trong tay. Theo Brian Charles Burke, thì cử chỉ xiết chặt tay nhau để chứng tỏ lời hứa của hai phía không nói suông, mà là sự bảo đảm bằng trái tim. Nhưng với ai thì còn tạm thời tin được, còn với đảng cọng sản Hà Nội, xin đừng , kẻo phải khổ lụy một đời như lịch sử đã minh chứng suốt 34 năm qua không ai không biết cho dù có ít người đã giã ngộ để chơi trò ' nối vòng tay lớn hay hòa hợp hòa giải ' với phường đạo tặc có một không hai trong giòng giống Lạc Hồng.
1- HOÀ BÌNH VIỆT NAM GIẢ MẠO, SAU CÁI BẮT TAY LỊCH SỬ TẠI BA LÊ NGÀY 27-1-1973 :
Trên cỏi đời này, thật ra không phải ai cũng gian trá lừa bịp, vẫn có không biết bao nhiêu dân tộc trên thế giới luôn đối xử với nhau bằng sự chân thành, lương thiện và chính những cái bắt tay đã bao hàm lòng tin tưởng của hai phía. Bởi vậy ngày nay, câu châm ngôn ' chúng ta bắt tay nhau về việc này', đã trở nên phổ quát trong mọi văn kiện giao dịch thương mại.
(Hinh Kissinger và Lê Đức Thọ đang bắt tay)
Trong quá khứ, cũng đã có nhiều cái bắt tay được xem như biểu tượng của sự hòa giải chân thành. Năm 238 trước tây lịch (TTL), hai Hoàng Đế La Mã Balbinus và Pupienus Maximus, đã cho khắc hình cái bắt tay lên đồng tiền đang lưu hành lúc đó.
Tại Hoa Kỳ năm 1775, trong buổi lễ ký thỏa uớc giữa Chính phủ liên bang và các Tù trưởng Da đỏ, Tổng thống Jefferson, đã gắn cho họ huy chương có hình bắt tay. Thế chiến II kết thúc, Tướng De Galle của Pháp, đã bắt tay và ôm hôn người đại diện của nước Đức bại trận là Adenauer .
Tương tự, ngày 27-9-1945, Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái bình Dương là tướng Mac Arthur đã hội kiến và bắt tay Nhật Hoàng Hiro Hito, để biểu lộ sự hòa giải giữa hai dân tộc. Nhờ lòng vị tha này, Nhật canh tân đất nước rồi trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới và không phản bội Hoa Kỳ, từ ấy đến nay. Nhưng vào tháng 5-1954, tại hội nghị Genève ở Thụy Sĩ, Ngoại trưởng Mỹ là Foster Dulles đã thẳng thừng từ chối cái bắt tay của Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, với lý do hai nước đang có chiến tranh tại Triều Tiên. Tóm lại, trên mọi phương diện đối voí người văn minh, cái bắt tay biểu lộ sự kính trọng, lòng chân thành và cương vị bình đẳng của hai phía khi đối mặt.
Tại VN, Kissinger đã bắt đầu đi đêm với Bắc Việt ở Ba Lê (Pháp), dù lúc đó Cọng sản Hà Nội đang bị nhiều tổn thất nặng nề trên khắp các mặt trận, không thể nào thay thế kịp quân số cũng như trang bị sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968). Rồi tiếp theo là hành quân vượt biên mùa xuân 1970 của liên quân Mỹ-Việt, tiêu diệt cục R và các căn cứ Việt Cộng trên lãnh thổ Kampuchia. Chính những chiến thắng to lớn này của VNCH lại trở thành các tai họa cho chính phủ Nixon, do bọn phản chiến gây ra khắp nơi tại Hoa Kỳ. Do trên, từ năm 1971 cho tới lúc tàn cuộc, chính sách của Hoa Kỳ đối với VNCH luôn biến chất theo tình hình chính tri tại Mỹ nhưng Miền Nam đã trưởng thành trong khói lửa, nên đã vượt qua được hai cuộc thử thách kinh hoàng vào năm 1971, khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 ' Lùng và diệt địch 'ngay trên căn cứ đầu nảo của Bắc Việt tại Lào. Theo các nhà quân sử và những tài liệu tuyệt mật vừa được công bố, thì dù QLVNCH không được sự yểm trợ của không lực Mỹ theo lời hưa, lại đối mặt với một quân số khổng lồ của miền Bắc trên 35.000 người, cộng thêm hai sư đoàn thiết giáp vừa được Liên Xô trang bị chiến xa tối tân T54 và PT76.
Hơn nữa vì mật lệnh hành quân bị tiết lộ, nên quân ta hầu như bị tấn công khắp các ngỏ ngách. Thế nhưng Tổng thống Thiệu đã phản ứng nhanh lẹ, bằng cách cho SĐ1BB vào chiếm Tchepone như đã hứa, rồi ra lệnh rút hết quân về, bất chấp sự phản đối của Kissinger-Nixon.
Mùa hè năm 1972, Bắc Việt lại mở cuộc đại chiến long trời lở đất vào Quảng Trị, Bình Định, KonTum,An Lộc.. dù Lê Đức Thọ và Kissinger đã đi đêm 12 lần tại Ba Lê, kể từ tháng giêng 1969. Rồi cũng như mọi lần, QLVNCH đã đơn độc chiến đấu, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ Miền Nam trong lúc đó tại Ba Lê, Kissinger đã đồng thuận với Bắc Việt một kế hoạch hòa bình, mà theo đó Mỹ cho phép bộ đội Bắc Việt được ở lại miền Nam, để tiếp tục cuộc xâm lăng, còn Mỹ thì rút hết về nước.
Sau này qua các tư liệu của Department of Defense,United States-Vietnam Relations 1945-1975 được công bố, mới biết tổng thống Nixon tung hỏa mù để gạt Tổng thống Thiệu bằng cách trước khi ký hiệp định, đã leo thang chiến tranh, thả mìn Hải Phòng, dội bom Miền Bắc, gây tin tưởng ảo nơi Chính phủ VNCH, để khỏa lấp lập trường Mỹ sẳn sàng chấp nhận một cuộc ngưng bắn tại chỗ, bỏ hẳn điều khoản bắt Hà Nội phải cùng Hoa Kỳ rút quân hổ tương và không duy trì một cuộc thặng dư quân đội nào tại miền Nam như họ đã làm tại Âu Châu và Nam Hàn.
Tóm lại cái bắt tay ngày 27-1-1973 giữa Kissinger và Lê Đức Thọ tại Ba Lê, chỉ để ngưng bắn lúc đó và thả tù binh, lợi cho Hoa Kỳ mà làm hại cho cả một dân tộc VN lẫn Kampuchia, Lào trên bán đảo Đông Dương, bị đắm chìm trong cùm gông nô lệ cọng sản quốc tế, do trên thế giới mới bảo đó là một cái bắt tay vô duyên nhất của người Mỹ trong lịch sử nhân loại.
(Nguyễn Thị Bình ký hiệp định Ba Lê 1973)
2- TỪ OLSO ĐẾN TRẠI DAVID, NHỮNG CÁI BẮT TAY LỊCH SỬ VÔ DUYÊN, TRONG HOÀ BÌNH TRUNG ĐÔNG :
So về diện tích và dân số (8,020 dặm vuông hay 20.772km2 với 4,5 dân), Do thái chỉ là một chấm nhỏ giữa các quốc gia Trung Đông như Ai Cập,Thổ nhỉ Kỳ và Ả Rập hoàn toàn theo hồi giáo, lúc nào cũng muốn tiêu diệt nước này. Nhưng từ ngày lập quốc năm 1948 cho tới nay, Do Thái luôn luôn làm bá chủ trong vùng, nhất là hiện nay trong tay có vũ khí nguyên tử và cả tàu ngầm trang bị đầu đạn hạt nhân, đưọc điều khiển từ xa, mà tờ Times Sunday số ra ngày 18-6-2000 đã công bố.
Như vậy Do Thái là nước thứ ba trên thế giơí đứng sau Mỹ-Nga có vũ khí này. Sự kiện càng làm các nước Ả Rập trong vùng Vịnh thi đua tìm kiếm vũ khí mới, khiến cho tình hình thêm nát bấy hiện nay tại Trung Đông, qua màn hỏa mù tranh dành đất đai giữa hai dân tộc Irael và Palestine. Theo tin tức từ Anh, hiện Do Thái có từ 100-200 đầu đạn nguyên tử, bốn tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân và người Do Thái đã nói thẳng không chút e ấp, vũ khí này để chọi với Ba Tư, cũng như bất cứ nước nào tấn công vào lãnh thổ mình, bằng chứng là năm 1973, khi bị Ai Cập và Syria tấn công, Thủ Tướng Do Thái đã ra lệnh lắp đầu đạn tầm gần và chỉ còn chút xíu nửa là khai hỏa,nếu bộ binh bị thất trận.