Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

2010: Thất Nghiệp Vẫn Là Mối Đau Đầu Của Hk

08/12/201000:00:00(Xem: 9263)

2010: Thất Nghiệp Vẫn Là Mối Đau Đầu Của HK
By Nguyễn Xuân Nghĩa, Thanh Hà RFI

Nôm na là "tăng trưởng trong thất nghiệp"...

RFI: Trong cả năm 2010, tình hình lao động ở Mỹ không có dấu hiệu được cải thiện. Một người Mỹ trên bảy bị thất nghiệp hay có nguời thân trong gia đình không có việc làm. Vì sao thất nghiệp ở Mỹ vẫn còn cao " Phải chăng đây là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ đang chuyển sang một mô hình phát triển mới, ở đó tăng trưởng kinh tế không nhất thiết tạo thêm công việc làm "
Trong tháng 11 vừa qua, cả nước Mỹ chỉ tạo thêm được có 39.000 việc làm, thấp hơn nhiều so với 130 000 mong đợi. Tỷ lệ thất nghiệp tại siêu cường kinh tế số 1 thế giới sau ba tháng được duy trì ở mức 9,6%, đã tăng lên trở lại tới 9,8%.
Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang, Fed thẩm định: Trung bình mỗi tháng nước Mỹ phải tạo thêm 150.000 công việc để giải quyết việc làm cho những người mới tham gia thị trường lao động. Đó mới chỉ là một con số tối thiểu chưa cho phép Hoa Kỳ hy vọng «đảo ngược tình thế», giải quyết trạng thất nghiệp cho tám triệu rưỡi người đã bị mất việc trong hai năm 2008-2009 do tác động của khủng hoảng tài chính và kinh tế. Ngân hàng Trung ương Mỹ lo ngại từ nay cho đến năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở trên mức 8%. Trả lời đài RFI, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ California đánh giá về mức độ nghiêm trọng của nạn thất nghiệp tại Hoa Kỳ:
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thống kê về nhân dụng do bộ Lao động Mỹ thông báo ra gồm hai loại: Thứ nhất là khảo sát các doanh nghiệp xem tháng trước có bao nhiêu người nhận thêm việc hoặc bị mất việc để biết là số công việc làm ăn lương đã tăng hay giảm chừng bao nhiêu. Thực tế thì tháng 11 có là Mỹ chỉ tạo thêm 39 ngàn việc làm khi mà trung bình mỗi tháng phải có thêm tối thiểu 150 ngàn việc làm mới thì mới đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động do sự thể là có thêm hơn triệu người đến tuổi đi làm.
- Loại thứ hai là khảo sát các hộ gia đình xem có bao nhiêu muốn kiếm việc làm mà không có việc, mục đích là tính ra tỷ lệ thất nghiệp. Thực tế thì thất nghiệp lại tăng, từ 9,6 lên 9,8% dân số lao động. Khi ta nhớ là dân số lao động tự nhiên tăng thêm ít ra 10 vạn một tháng, tức là khoảng một triệu ba một năm, thì nếu tình hình không cải thiện tất nhiên là tỷ lệ thất nghiệp phải tăng khi mà mẫu số tăng nhanh hơn tử số. Thực tế thì Mỹ đang có hơn 15 triệu dân thất nghiệp toàn thời và gần bảy triệu người thất nghiệp từ hơn sáu tháng và tình hình còn bi đát hơn mấy con số đó.
- Có hai việc nhỏ nên chú ý về kỹ thuật. Thứ nhất là câu hỏi khi thăm dò là“có kiếm việc” hoặc “có khai thất nghiệp không”" Câu hỏi này quan trọng vì nhiều người khai thất nghiệp để hy vọng lãnh trợ cấp nếu thời hạn lãnh trợ cấp thất nghiệp vẫn còn và có người thì quá nản chí nên chẳng thiết kiếm việc nữa. Vì vậy mà kết quả có khi sai lạc do câu trả lời. Chuyện kỹ thuật thứ hai là thống kê thất nghiệp chỉ là loại “dữ kiện hậu kiểm” vì xác nhận chuyện cũ, chứ không phải là loại “dữ kiện tiên báo”, cho phép dự báo tình hình trong tương lai.
RFI: Vậy thì tại sao báo chí Mỹ đã nói đến một số tín hiệu khả quan trong lúc thị trường lao động Hoa Kỳ vẫn còn u ám"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tình hình một số ngành sản xuất và nhất là mức tin tưởng của giới tiêu thụ có khả quan hơn cho một nền kinh tế mà 70% sản lượng tùy thuộc vào tiêu thụ. Vì vậy, giới kinh tế mới tiên báo một số hy vọng, như sẽ có thêm 15 vạn người có việc làm, hoặc giới tiêu thụ bắt đầu mua sắm lại trong mùa lễ lạc kể từ cuối tháng 11 qua năm tới. Nhưng thực tế vẫn là sự hoài nghi và thiếu tin tưởng của giới đầu tư, nhà sản xuất, là các doanh nghiệp.
- Giới này ngần ngại chưa tuyển lại những người bị sa thải và càng chưa muốn tuyển thêm người mới khi chưa vững tin vào tương lai. Trong khi ấy, các doanh nghiệp cũng thấy là sau khi sa thải bớt người, tình hình sản xuất lại có vẻ cải tiến, nghĩa là ít tốn lương mà vẫn làm được như trước. Người ta gọi đó là “cải thiện năng suất” mà thực tế là thất nghiệp không giảm và qua mỗi đợt sóng gió như vậy, các doanh nghiệp lại phát huy sáng kiến để dùng ít người hơn mà vẫn giữ được mức sản xuất cũ!
RFI: Cuối tháng 11, Ngân hàng trung ương Mỹ dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ trong năm nay sẽ ở mức 2,4% hay 2,5%. Tỷ lệ này chưa cho phép đi đến kết luận là nước Mỹ đã thực sự phục hồi sau khủng hoảng tài chính 2008. Nhưng đáng lo ngại hơn cả, có lẽ là nhận định của nhiều chuyên gia theo đó, kinh tế Mỹ dù có khởi sắc trở lại cũng chưa chắc đã cho phép Hoa Kỳ giải quyết vấn đề thất nghiệp. Điều này có thể giải thích vì sao Ngân hàng trung ương bi quan cho rằng, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ trong bốn năm sắp tới ít có khả năng tuột xuống dưới ngưỡng 8%
Một trong những nguyên nhân giải thích hiện tượng này có thể là do kinh tế Mỹ thực sự bước vào giai đoạn «hậu công nghiệp» ở đó trọng lượng của các khu vực sản xuất ngày càng bị thu gọn lại để nhường chỗ cho các ngành tài chính, tin học và những dịch vụ. Mô hình mới đó cho phép nước Mỹ tiếp tục tăng trưởng mà không nhất thiết phải tuyển dụng thêm nhân công.


Nói cách khác, trong viễn cảnh này, «tăng trưởng kinh tế» chưa chắc đã cho phép Hoa Kỳ giải quyết thất nghiệp và như vậy nước Mỹ sẽ cần phải có thời gian để lượng nhân công có thể thích nghi với hoàn cảnh mới.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hoa Kỳ đã bước qua hình thái sản xuất khác của nền kinh tế hậu công nghiệp, với khu vực biến chế cứ thu hẹp dần y như khu vực canh nông trong thế kỷ trước và các ngành dịch vụ hay tài chính thì phát triển mạnh và cần một loại nhân công có tay nghề khác hẳn. Cuộc cách mạng về công nghệ tin học từ chục năm nay đánh dấu tình trạng đó, nhưng vì vậy mà sau mỗi đợt suy trầm, lần trước là năm 2001, lần này vào năm 2008, ta đều chứng kiến hiện tượng kinh tế hồi phục mà mức tuyển dụng lại không tăng. Nôm na là "tăng trưởng trong thất nghiệp".
- Các chính trị gia có thể biết hoặc không biết sự thể khách quan ấy nên đả kích nhau về vấn đề giả. Thí dụ như không ưu lo cho công nhân, doanh nghiệp làm thợ thuyền mất việc vì đầu tư ra ngoài để tìm lợi thế nhân công rẻ, v.v... Chuyện ấy là thói thường của chính trường.
- Chuyện đáng nói là các chính khách lại kê toa bốc thuốc cho căn bệnh giả này, như tìm cách bảo vệ khu vực chế biến đang tự lỗi thời hóa bằng chính sách bảo hộ mậu dịch, hoặc gia hạn trợ cấp thất nghiệp - hiện nay có thể lên tới 99 tuần, tức là gần hai năm, cho một số thành phần. Khi vẫn tin vào bàn tay cứu trợ thay vì phải học nghề mới hoặc phải nhận mức lương thấp hơn trong một việc khác thì nhiều người lại cứỳ ra đấy và mức thất nghiệp tất nhiên sẽ giảm rất chậm, dù kinh tế có thểđã phục hồi.
- Chính khách Mỹ không nhìn ra chuyện dài hạn và cách yểm trợ cho cả xã hội tiến lên hình thái sản xuất mới, như qua giáo dục và đào tạo, mà còn mị dân với trò tăng lương tối thiểu pháp định với kết quả là làm giới trẻ khó kiếm việc hơn và ngay trong hiện tại, thành phần trẻ vừa tốt nghiệp đại học lại bị thất nghiệp tới hơn 5%, mức cao nhất từ 40 năm nay vàđiều này giải thích vì sao giới trẻ hết đặt kỳ vọng vào ông Obama!
RFI: Tuy nhiên bài toán đang đặt ra ngay trước mắt đối với nước Mỹ là làm thế nào để đem lại tin tưởng cho tư nhân và cho các nhà sản xuất. Với tỷ lệ thất nghiệp giao động gần 10%, chắc chắn mức tiêu thụ tại cường quốc kinh tế số một thế giới này sẽ bị chựng lại. Đối với một quốc gia mà sức mua sắm của các hộ gia đình bảo đảm đến 80% tăng trưởng của GDP - thống kê trong ba tháng 8 -9 và 10 vừa qua - thì không khác nào là Hoa Kỳ đang rơi vào cái vòng luẩn quẩn.
Một câu hỏi khác liên quan đến tính hiệu quả của gói kích cầu 800 tỷ đô la đã bơm vào nền kinh tế Mỹ từ đầu năm 2008 trong mục đích cải thiện thị trường lao động:
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Một cách lạc quan nhất thì kế hoạch kích thích kinh tế hơn 800 tỷ đô la chỉ tạo thêm từ triệu rưỡi đến ba triệu việc làm trong số 15 triệu thất nghiệp trong khi các doanh nghiệp có thể tạo ra việc làm thì ngồi trên đống bạc mà không dám đầu tư vì còn nghe ngóng xem họ sẽ bị tội gì, gọt thuế cỡ nào, được miễn thuế tronhg bao lâu" Quyết định của ông Obama vào tối 6/12 là sẽ đồng ý triển hạn kế hoạch miễn thuế của ông Bush thêm hai năm, kể cả thuế cho "" bọn nhà giàu", một hộ có hai lợi tức tổng cộng là 250 ngàn đô la một năm có thể phần nào khai thông tình trạng bế tắc này.
RFI: Bên cạnh những yếu tố thuần túy kinh tế, cũng có thể nói cả năm nay, Hoa Kỳ còn bị lấn cấn vì một cuộc đọ sức chính trị: Một bên thì tổng thống Obama thì đặt trọng tâm vào chính sách cải tổ hệ thống bảo hiểm y tế, lành mạnh hóa các hoạt động tài chính, hỗ trợ cho các hộ gia đình tránh để làm tổn hại đến khả năng mua sắm của hơn 310 triệu con người. Cho dù cái giá phải trả là ngân sách của chính phủ liên bang đã lên tới mức báo động là 1.555 tỷ đô la.
Ở phía bên kia, đảng Cộng Hòa lại coi việc việc giảm bội chi ngân sách và kéo dài chính sách giảm thuế cho nhữnng thành phần giàu có là những ưu tiên hàng đầu. Vậy thì Hoa Kỳ có những lối thoát nào để giải quyết thất nghiệp hay không "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thực tế thì Hoa Kỳ đang bị ách tắc chính trị nên chỉ còn một định chế độc lập là Ngân hàng Trung ương để cứu nguy kinh tế bằng biện pháp tiền tệ mà thôi. Trong khi ấy một số biện pháp khác về thuế khoá và công chi vẫn có thể khuyến khích doanh nghiệp bỏ tiền đầu tư và tạo thêm việc làm. Thí dụ như giảm thuế lương bổng làđiều hai đảng cầm quyền đang mặc cả với nhau để quyết định sớm. Thí dụ khác là bớt trợ cấp cho người thất nghiệp đã quá lâu nhưng lại cấp tiền thưởng cho những ai tìm ra việc làm mới, hoặc trả lại tiền cho các tiểu bang nào tuyển dụng lại những người mới bị sa thải. Người ta có cả chục giải pháp như vậy, nhưng nói chung là tốn tiền khi ngân sách quốc gia đã bị bội chi quá nặng vì những liều thuốc vô hiệu khác.
- Cuối cùng thì chỉ còn một hy vọng là sự phấn đấu của tư doanh sau khi thấy một số chính khách bị thất nghiệp sau cuộc bầu cử tháng trước! Sự thật khó chối cãi là tư doanh mới tạo ra của cải và việc làm, chứ không phải là chính quyền và bộ máy nhà nước.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.