Chín Trăm Ngàn Trẻ Em Ở Mỹ Bị Ưu Trầm Có Ý Định Tự Vẫn
Đây là kết quả tường trình hôm thứ Sáu, September 9, 2005, do Cơ Quan Y Tế Và Ghiền Ma Túy Hoa Kỳ cho biết sau cuộc thăm dò trẻ em vào năm 2004. Những câu hỏi nghiên cứu đưa ra bao gồm những triệu chứng ưu trầm, kể cả ý tưởng muốn chết hay tự vẫn. Trong thơì gian bị ưu trầm kéo dài hơn 2 tuần lễ là lúc trẻ em thường bị ưu trầm nặng, không thiết gì đến công việc hàng ngày. Khi bị ưu trầm nặng, trẻ có 5 tới 9 triệu chứng ưu trầm. Tường trình cũng cho biết khoảng 7% trẻ từ tuổi 12-17 (tức là tương đương vơí 1.8 triệu trẻ em ở Mỹ) bị ưu trầm nặng.Trẻ có tư tưởng tự vẫn trong thơì điểm bi ưu trầm nặng nhất. Ít ra là có tơí 3.5 triệu trẻ em ở Mỹ bị ưu trầm một lần trong đời. 20% trẻ gái và 8.5% trẻ trai ít ra bị ưu trầm một lần trong đời.Tỉ lệ ưu trầm trẻ em ở Mỹ không thay đổi theo chủng tộc, nhưng tăng theo tuổi, tức là trẻ càng lớn tuổi càng bị ưu trầm nặng hơn. Tuy nhiên khi tơí 20 -30 tuổi trở lên thì ưu trầm sẽ giảm thấp hơn. (Bàn thêm: Chậm trễ điều trị trẻ em ưu trầm sẽ bị nguy cơ bệnh ưu trầm đeo đẳng suốt đơì, nhất là ở trẻ lứa tuổi 15.Trẻ em tự vẫn ở Mỹ đứng hàng thứ 3 sau tai nạn xe hơi và tội giết người. Tỉ lệ trẻ trai tự vẫn cao hơn trong khi tỉ lệ trẻ gái có ý nghĩ muốn tự vẫn cao hơn. Nếu nghi ngờ trẻ bị ưu trầm, cần đưa trẻ gặp bác sĩ, nhất là bác sĩ chuyên về bệnh tâm thần trẻ em. Như vừa nói ở trên, nguy cơ nguy hiểm nhất khi trẻ bị ưu trầm là tự vẫn. Trong nửa thế kỷ qua, bệnh nhân trẻ bị ưu trầm càng ngày càng tăng cao. Tỉ lệ thanh niên ưu trầm giảm thấp ở tuổi 20-30. Tỉ lệ người sống ở Mỹ bị ưu trầm nặng hơn những người dân sống trong những nước khác. Tỉ lệ bệnh ưu trầm tại những nước Á Châu, theo đà văn minh, cũng dần dần tăng cao).
Phi Hành Gia Tập Thể Dục Đạp Máy Trên Không Gian Giảm Nguy Cơ Teo Bắp Thịt
Bs Vincent J. Caiozzoa thuộc Đaị Học Y Khoa Irivine, California, hợp tác với Viện Nghiên Cứu Sinh Y Học Không Gian, nghiên cứu: tập luyện trong không gian với trọng lực nhân tạo có giống như tập luyện thể dục trên mặt đất" Thử nghiệm tập luyện trong những điều kiện trọng lực nhân tạo bằng 1 hay gấp 5 lần trọng lực trái đất. Khi áp dụng đạp máy chuyển động trong không gian, phi hành gia ngồi trong ghế dưới một áp lực cũng giống như trọng lực trái đất. Các khảo cứu viên tìm hiểu xem tập thể dục đạp máy trong không gian liệu có ảnh hưởng tới trọng khối mô xương của cơ thể, hay có giúp ích gì cho cơ quan tim mạch" Song song vơí việc tập luyện trong không gian, các khoa học gia còn làm sinh thiết (biopsy) những người tình nguyện sau khi đạp máy xoay tròn trong không gian, so sa’nh trọng khối bắp thịt, đo lường sức mạnh bắp thịt, đồng thời nghiên cứu phân tử và mô thịt tăng trưởng trong không gian. Ngồi trong bộ phận xoay chuyển trong không gian cũng có thể tạo được điều kiện giống như tập thể dục chạy treadmill, đạp xe ,hay dùng những phương pháp thể dục nào khác trên mặt đất. Tóm lại, thể dục trong không gian sẽ giúp các phi hành gia tránh nguy cơ teo bắp thịt khi phải hoạt động lâu dài trong không gian. National Space Biomedical Research Institute, News, 2005.
Siêu Vi Trùng Cúm Gà Tại Á Châu Kháng Thuốc Amantadine Mạnh Hơn Siêu Vi Trùng Cúm Gà Tại Bắc Mỹ
Ts Robert G. Webster và Ts Natalia A. Iliyushina cùng các cộng sự viên tại Bệnh Viện Nhi Đồng St Jude nghiên cứu chuỗi di thể M2 từ 60 siêu vi trùng cúm gà H5N1 tại Á Châu và 74 siêu vi trùng cúm gà tại Bắc Mỹ. Những siêu vi trùng kể trên chia thành những nhóm nhỏ (subtypes) loại H5, H6, H7 và H9. Đồng thơì nghiên cứu cũng bao gồm thêm 408 siêu vi trùng cúm gà H5N1 trên thế giới lấy từ tài liệu National Library of Medicine’s GenBank database. Bạch đản M2 là một đường ion nằm ngoài vỏ bao quanh siêu vi trùng cho phép những protons (hydrogen ions) chui vào siêu vi trùng. Nhờ Protons mà siêu vi trùng có thể sinh sản. Thuốc Amantadine kìm hãm chức năng M2, kìm hãm protons chui vào siêu vi trùng, do đó ngăn chặn siêu vi trùng sinh sản. Khi bị kháng thuốc Amantadine tức là ở thời điểm 1 trong 5 amino acids trong M2 bi thay đổi. Cũng nhờ nghiên cứu M2 mà các khoa học gia có thể biết được hiện tượng siêu vi trùng cúm gà loại A kháng thuốc Amantadine. Kết quả cho thấy siêu vi trùng cúm gà tại Bắc Mỹ Châu, như ở Hoa Kỳ, và siêu vi trùng cúm gà tại miền Nam Á Châu, không bị kháng thuốc Amantadine, từ năm 1979 tới 1983. Tuy nhiên M2 bị đột biến (tức là kháng thuốc Amantadine) trong 31% cúm gà điển hình (subtypes) loại H5 và 11% loại H9 tại Đông Nam Á Châu, trong thơì gian từ 2000-2004. Tuy nhiên, M2 trong loại H5 và H9 siêu vi trùng cúm gà H5N1 trong cùng thơì gian từ năm 2000-2004 tại Bắc Mỹ không bị đột biến, tức là không bị kháng thuốc Amantadine. Hiện tượng siêu vi trùng cúm gà kháng thuốc Amantadine ngày nay có thể một phần do Trung Quốc đã dùng quá nhiều Amantadine trong việc chích ngừa cúm H5N1 cho gia cầm. Virology On Line, September 2005. (Bàn thêm: Điều chế thuốc chủng ngừa cúm gà đang tăng tốc độ. Nhiều chuyên gia tại Á Châu khuyến cáo nên điều chế thuốc chủng ngừa cúm gà càng nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Hiện có 4 thuốc ngừa cúm: Amantadine, Rimantadine, Tamiflu và Relenza. Amantadine và Rimantadine không hiệu nghiệm ngừa và trị cúm gà H5N1, nhưng 2 thuốc Tamiflu và Relenza hiệu nghiệm điều trị cúm gà. Trong vài trường hợp, cả 2 thuốc Tamiflu và Relenza cũng hiệu nghiệm ngừa cúm gà. Tamiflu và Ralenza đều thuộc loại thuốc kìm hãm phân hóa tố neuraminidase. Trong một tường trình gần đây cho biết siêu vi trùng cúm gà H5H1 tại Nga "chịu" thuốc Amantadine, loại thuốc rẻ tiền hơn so vơí Tamiflu hay Relenza. Bây giờ, ngoài Tamiflu, thuốc chủng ngừa cúm thứ 2 Relenza đang được sản xuất hàng loạt, tích trữ, để đối đầu e ngại một đại dịch cúm gà có thể sẩy ra).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3015; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa; www.khoahoc.net, Sức Khỏe.
Đây là kết quả tường trình hôm thứ Sáu, September 9, 2005, do Cơ Quan Y Tế Và Ghiền Ma Túy Hoa Kỳ cho biết sau cuộc thăm dò trẻ em vào năm 2004. Những câu hỏi nghiên cứu đưa ra bao gồm những triệu chứng ưu trầm, kể cả ý tưởng muốn chết hay tự vẫn. Trong thơì gian bị ưu trầm kéo dài hơn 2 tuần lễ là lúc trẻ em thường bị ưu trầm nặng, không thiết gì đến công việc hàng ngày. Khi bị ưu trầm nặng, trẻ có 5 tới 9 triệu chứng ưu trầm. Tường trình cũng cho biết khoảng 7% trẻ từ tuổi 12-17 (tức là tương đương vơí 1.8 triệu trẻ em ở Mỹ) bị ưu trầm nặng.Trẻ có tư tưởng tự vẫn trong thơì điểm bi ưu trầm nặng nhất. Ít ra là có tơí 3.5 triệu trẻ em ở Mỹ bị ưu trầm một lần trong đời. 20% trẻ gái và 8.5% trẻ trai ít ra bị ưu trầm một lần trong đời.Tỉ lệ ưu trầm trẻ em ở Mỹ không thay đổi theo chủng tộc, nhưng tăng theo tuổi, tức là trẻ càng lớn tuổi càng bị ưu trầm nặng hơn. Tuy nhiên khi tơí 20 -30 tuổi trở lên thì ưu trầm sẽ giảm thấp hơn. (Bàn thêm: Chậm trễ điều trị trẻ em ưu trầm sẽ bị nguy cơ bệnh ưu trầm đeo đẳng suốt đơì, nhất là ở trẻ lứa tuổi 15.Trẻ em tự vẫn ở Mỹ đứng hàng thứ 3 sau tai nạn xe hơi và tội giết người. Tỉ lệ trẻ trai tự vẫn cao hơn trong khi tỉ lệ trẻ gái có ý nghĩ muốn tự vẫn cao hơn. Nếu nghi ngờ trẻ bị ưu trầm, cần đưa trẻ gặp bác sĩ, nhất là bác sĩ chuyên về bệnh tâm thần trẻ em. Như vừa nói ở trên, nguy cơ nguy hiểm nhất khi trẻ bị ưu trầm là tự vẫn. Trong nửa thế kỷ qua, bệnh nhân trẻ bị ưu trầm càng ngày càng tăng cao. Tỉ lệ thanh niên ưu trầm giảm thấp ở tuổi 20-30. Tỉ lệ người sống ở Mỹ bị ưu trầm nặng hơn những người dân sống trong những nước khác. Tỉ lệ bệnh ưu trầm tại những nước Á Châu, theo đà văn minh, cũng dần dần tăng cao).
Phi Hành Gia Tập Thể Dục Đạp Máy Trên Không Gian Giảm Nguy Cơ Teo Bắp Thịt
Bs Vincent J. Caiozzoa thuộc Đaị Học Y Khoa Irivine, California, hợp tác với Viện Nghiên Cứu Sinh Y Học Không Gian, nghiên cứu: tập luyện trong không gian với trọng lực nhân tạo có giống như tập luyện thể dục trên mặt đất" Thử nghiệm tập luyện trong những điều kiện trọng lực nhân tạo bằng 1 hay gấp 5 lần trọng lực trái đất. Khi áp dụng đạp máy chuyển động trong không gian, phi hành gia ngồi trong ghế dưới một áp lực cũng giống như trọng lực trái đất. Các khảo cứu viên tìm hiểu xem tập thể dục đạp máy trong không gian liệu có ảnh hưởng tới trọng khối mô xương của cơ thể, hay có giúp ích gì cho cơ quan tim mạch" Song song vơí việc tập luyện trong không gian, các khoa học gia còn làm sinh thiết (biopsy) những người tình nguyện sau khi đạp máy xoay tròn trong không gian, so sa’nh trọng khối bắp thịt, đo lường sức mạnh bắp thịt, đồng thời nghiên cứu phân tử và mô thịt tăng trưởng trong không gian. Ngồi trong bộ phận xoay chuyển trong không gian cũng có thể tạo được điều kiện giống như tập thể dục chạy treadmill, đạp xe ,hay dùng những phương pháp thể dục nào khác trên mặt đất. Tóm lại, thể dục trong không gian sẽ giúp các phi hành gia tránh nguy cơ teo bắp thịt khi phải hoạt động lâu dài trong không gian. National Space Biomedical Research Institute, News, 2005.
Siêu Vi Trùng Cúm Gà Tại Á Châu Kháng Thuốc Amantadine Mạnh Hơn Siêu Vi Trùng Cúm Gà Tại Bắc Mỹ
Ts Robert G. Webster và Ts Natalia A. Iliyushina cùng các cộng sự viên tại Bệnh Viện Nhi Đồng St Jude nghiên cứu chuỗi di thể M2 từ 60 siêu vi trùng cúm gà H5N1 tại Á Châu và 74 siêu vi trùng cúm gà tại Bắc Mỹ. Những siêu vi trùng kể trên chia thành những nhóm nhỏ (subtypes) loại H5, H6, H7 và H9. Đồng thơì nghiên cứu cũng bao gồm thêm 408 siêu vi trùng cúm gà H5N1 trên thế giới lấy từ tài liệu National Library of Medicine’s GenBank database. Bạch đản M2 là một đường ion nằm ngoài vỏ bao quanh siêu vi trùng cho phép những protons (hydrogen ions) chui vào siêu vi trùng. Nhờ Protons mà siêu vi trùng có thể sinh sản. Thuốc Amantadine kìm hãm chức năng M2, kìm hãm protons chui vào siêu vi trùng, do đó ngăn chặn siêu vi trùng sinh sản. Khi bị kháng thuốc Amantadine tức là ở thời điểm 1 trong 5 amino acids trong M2 bi thay đổi. Cũng nhờ nghiên cứu M2 mà các khoa học gia có thể biết được hiện tượng siêu vi trùng cúm gà loại A kháng thuốc Amantadine. Kết quả cho thấy siêu vi trùng cúm gà tại Bắc Mỹ Châu, như ở Hoa Kỳ, và siêu vi trùng cúm gà tại miền Nam Á Châu, không bị kháng thuốc Amantadine, từ năm 1979 tới 1983. Tuy nhiên M2 bị đột biến (tức là kháng thuốc Amantadine) trong 31% cúm gà điển hình (subtypes) loại H5 và 11% loại H9 tại Đông Nam Á Châu, trong thơì gian từ 2000-2004. Tuy nhiên, M2 trong loại H5 và H9 siêu vi trùng cúm gà H5N1 trong cùng thơì gian từ năm 2000-2004 tại Bắc Mỹ không bị đột biến, tức là không bị kháng thuốc Amantadine. Hiện tượng siêu vi trùng cúm gà kháng thuốc Amantadine ngày nay có thể một phần do Trung Quốc đã dùng quá nhiều Amantadine trong việc chích ngừa cúm H5N1 cho gia cầm. Virology On Line, September 2005. (Bàn thêm: Điều chế thuốc chủng ngừa cúm gà đang tăng tốc độ. Nhiều chuyên gia tại Á Châu khuyến cáo nên điều chế thuốc chủng ngừa cúm gà càng nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Hiện có 4 thuốc ngừa cúm: Amantadine, Rimantadine, Tamiflu và Relenza. Amantadine và Rimantadine không hiệu nghiệm ngừa và trị cúm gà H5N1, nhưng 2 thuốc Tamiflu và Relenza hiệu nghiệm điều trị cúm gà. Trong vài trường hợp, cả 2 thuốc Tamiflu và Relenza cũng hiệu nghiệm ngừa cúm gà. Tamiflu và Ralenza đều thuộc loại thuốc kìm hãm phân hóa tố neuraminidase. Trong một tường trình gần đây cho biết siêu vi trùng cúm gà H5H1 tại Nga "chịu" thuốc Amantadine, loại thuốc rẻ tiền hơn so vơí Tamiflu hay Relenza. Bây giờ, ngoài Tamiflu, thuốc chủng ngừa cúm thứ 2 Relenza đang được sản xuất hàng loạt, tích trữ, để đối đầu e ngại một đại dịch cúm gà có thể sẩy ra).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3015; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa; www.khoahoc.net, Sức Khỏe.
Gửi ý kiến của bạn