Các chi phí cá nhân thường không được trừ thuế, nhưng các chi phí y tế khi được khai trên hồ sơ thuế cá nhân có thể được trừ thuế (deductible personal expenditures).
Điều này xảy ra bởi vì Quốc Hội cho rằng các chi phí y tế lớn có thể sẽ ảnh hưởng đến khả năng đóng các khoản thuế lợi tức của người dân. Tuy nhiên, theo các quy định ghi trên Sec. 213 người thọ thuế có thể khai để trừ thuế cho các chi phí y tế chỉ khi các chi phí này nhiều hơn mức 7.5% nguồn lợi tức sau khi điều chỉnh của mình (to the extent the expenses exceed 7.5 of the taxpayer's AGI).
Để được giảm thuế theo tiêu chuẩn này, các khoản chi phí y tế phải là các chi phí săn sóc y tế cung cấp cho người đủ tiêu chuẩn. Người thọ thuế không thể khai các chi phí y tế đã được thanh toán cho họ (the expenses that are reimbursed).
Chi phí y tế bao gồm tiền quý vị trả cho bác sĩ khi quý vị được chuẩn đoán, chữa bệnh, làm thuyên giảm hay ngăn ngừa bệnh tật; chi phí y tế cũng bao gồm các khoản tiền quý vị trả cho việc điều trị bệnh trên bất cứ phần nào của cơ thể, hoặc tiền trả cho các biện pháp trị liệu để bảo đảm các chức năng hoạt động của cơ thể. Các chi phí chăm sóc y tế do đó phải đạt mục đích làm dịu hay ngăn ngừa được bệnh tật, cả tâm bệnh lẫn bệnh thể trạng. Các chi phí y tế cũng bao gồm các chi phí quý vị trả cho nha sĩ khám và chữa răng cho quý vị, nhưng không kể các phí tổn thuốc men hay các biện pháp tăng cường thể lực chung chung như các loại thuốc tăng lực (vitamins) và đi nghỉ mát để dưỡng bệnh v.v.
Các chi phí y tế cũng bao gồm các loại phí bảo hiểm y tế một phần hay toàn phần cho những tốn kém quý vị phải trả cho việc chăm sóc sức khỏe, và phí di chuyển khi quý vị bị đau bệnh phải nhờ đến các phương tiện này, như xe cấp cứu, xe lăn. Ngoài ra, nếu quý vị bị bệnh lâu ngày và cần người đến chăm sóc hay giúp đỡ quý vị trong thời gian trị bệnh hoặc bị bệnh, quý vị có thể khai để trừ thuế các khoản tiền phải trả cho công ty bảo hiểm về các hợp đồng chăm sóc dài hạn khi quý vị bị bệnh.
Về các chi phí y tế khai để được trừ thuế trên hồ sơ thuế mỗi năm, quý vị chỉ có thể khai các khoản chi tiêu về thuốc men, thăm, khám, chữa bệnh quý vị đã trả trong năm đó, không nhất thiết khi nào quý vị nhận được các dịch vụ khám và chữa bệnh. Nếu quý vị trả các chi phí bằng ngân phiếu, ngày quý vị gởi các chi phiếu thanh toán hay ngày giao chi phiếu cho người nhận thường được xem là ngày trả tiền. Trường hợp quý vị chuyển tiền vào tài khoản để thanh toác các chi phí qua điện thoại hay qua hệ thống mạng thông tin điện tử, ngày trả tiền là ngày ghi trên các báo cáo tài chính của cơ quan nhận tiền. Nếu quý vị thanh toán các chi phí y tế bằng thẻ tín dụng, ngày trả tiền là ngày thanh toán các chi phí. Giống như những hình thức thanh toán khác, các khoản tiền được khai để trừ thuế căn cứ vào ngày-tháng-năm quý vị thanh toán tiền, không phải ngày các chi phí phát sinh.
Nếu quý vị đã "quên" không khai các chi phí y tế để được trừ thuế trong năm trước, quý vị có thể khai lại hồ sơ thuế khi sử dụng mẫu đơn 1040X. Không nên khai gộp các chi phí của những năm trước vào năm hiện tại. Thông thường, quý vị có thể khai lại bộ hồ sơ thuế trong vòng 3 năm kể từ ngày nộp hồ sơ chính thức; hoặc 2 năm tính từ ngày quý vị thanh toán số tiền thuế nợ của năm đó, tùy theo quãng thời gian nào xảy ra trước.
Quý vị không thể khai các chi phí y tế do các hãng bảo hiểm hay người khác trả cho quý vị mặc dù các khoản tiền này gởi trực tiếp cho quý vị, trả cho bệnh nhân, hay người hoặc cơ quan cung cấp dịch vụ y tế.
Đối với vợ chồng khai riêng hồ sơ thuế.
Nếu quý vị và vợ/chồng của quý vị sinh sống ở các tiểu bang không theo luật tài sản chung và hai người khai riêng hồ sơ thuế, mỗi người có thể khai để trừ thuế các khoản tiền đã thanh toán cho các dịch vụ y tế chính thức của mình. Bất cứ khoản chi phí y tế nào được thanh toán bằng tiền từ tài khoản chung của hai người có thể được chia đều, trừ trường hợp quý vị có thể chứng minh khác đi. Chẳng hạn, tài khoản ngân hàng mang tên chung hai vợ chồng, nhưng người chồng trong suốt cả năm không gởi tiền vào tài khoản này, chỉ một mình người vợ đi làm và trả tất cả các chi phí bằng tiền từ tài khoản "chung" đó.
Đối với các tiểu bang theo luật tài sản chung.
Nếu quý vị và người phối ngẫu cư ngụ ở các tiểu bang theo luật tài sản chung nhưng hai người quyết định khai và nộp hồ sơ thuế riêng, bất cứ khoản chi phí nào được thanh toán bằng tiền từ quỹ chung của hai người sẽ được phân chia đồng đều, mỗi người chỉ khai một nửa các chi phí để được trừ thuế. Nhưng nếu các chi phí y tế được thanh toán từ tài khoản riêng của một người, chỉ người đó mới đủ tiêu chuẩn để khai trừ thuế các chi phí y tế này. Quý vị nên tham khảo thêm ấn bản 555 - Các Quy Định về Tài Sản Chung (Publiation 555 - Community Property) để biết thêm chi tiết về vấn đề này nếu quý vị là người kết hôn, sống ở cá tiểu bang theo luật tài sản chung nhưng không khai thuế chung với người phối ngẫu.
Những người đủ tiêu chuẩn được trừ các chi phí y tế cá nhân.
Để có thể khai giảm thuế cho các phí tổn y tế , người thọ thuế phải thanh toán các chi phí này cho chính họ, vợ/chồng, con cái và những người sống phụ thuộc vào họ.
"NHỮNG NGƯỜI SỐNG PHỤ THUỘC: Các chi phí y tế được trừ thuế bao gồm các khoản tiền người thọ thuế đại diện người sống phụ thuộc thanh toán cho bác sĩ hay các dịch vụ y tế khi những người này đau bệnh hay cần được thăm, khám bệnh. Trường hợp này, người thọ thuế được quyền khai miễn giảm cá nhân cho những người sống phụ thuộc vào mình trên hồ sơ thuế.
"CON CÁI CỦA NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG ĐÃ LY DỊ: Theo quy đnh ghi trên Sec. 152(e), chỉ cần một người, cha hoặc mẹ, đủ tiêu chuẩn khai miễn giảm cá nhân cho đứa trẻ như người sống phụ thuộc vào họ, người cha hay mẹ không khai miễn giảm cá nhân cho con trên hồ sơ thuê vẫn có thể khai trừ thuế cho các chi phí y tế trả cho đứa trẻ. Cha hoặc mẹ là người thanh toán các phí tổn y tế cho con không nhất thiết phải khai con mình trên hồ sơ thuế mới được trừ thuế cho các chi phí này.