Hôm nay,  

Gặp Lại Dinah Pokempner Ở New York

26/06/201000:00:00(Xem: 4961)

Gặp Lại Dinah Pokempner Ở New York

Đòan Thanh Liêm
Trong số các bạn người Mỹ thân thiết của tôi ở New York, thì Dinah là người trẻ tuổi nhất, chị mới có 51 tuổi. Nhưng Dinah hiện nay lại là một nhân vật có vai trò khá quan trọng của tổ chức Human Rights Watch (HRW =Theo Dõi Nhân Quyền) với chức vụ là Cố vấn trưởng (General Counsel). Dinah là người được HRW trao phó theo dõi hồ sơ của tôi từ hồi đầu thập niên 1990, lúc tôi bị chánh quyền cộng sản bắt giam tại Saigon năm 1990 và đến năm 1992 thì đưa tôi ra xét xử tại Tòa án Saigon với bản án 12 năm tù giam vì “tôi tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội”, chiếu theo điều 79 Bộ luật hình sự của họ. Vì thế mà Dinah hiểu biết rất rõ về vụ án của tôi.
Năm 2000, khi tôi tới New York để thăm Dick Hughes là người bạn chí thiết đã tận tình lo lắng cứu thóat cho tôi thóat được nạn tù đày của cộng sản, thì Dinah cũng nhờ Dick dẫn tôi đến một tiệm ăn dùng cơm trưa với chị, sau đó lại còn mời chúng tôi ghé thăm gia đình của chị lúc đó đã có hai đứa cháu nhỏ. Ngay trong buổi gặp mặt nhau lần đầu tiên này, hai chúng tôi đã có thể trao đổi với nhau rất thân tình về nhiều chuyện liên hệ đến vụ án, cũng như về hòan cảnh sinh họat của tôi từ ngày đến định cư tại Mỹ từ năm 1996, sau khi tôi được công an đưa thẳng từ nhà tù Hàm Tân Phan Thiết ra phi trường Tân Sơn Nhất, để cùng với gia đình đáp máy bay qua Mỹ.
Và rôi cứ mỗi lần đến New York, thì tôi đều tìm cách để gặp gỡ trao đổi với chị về nhiều vấn đề, vì cả hai chúng tôi đều là luật sư, nên câu chuyện bàn thảo với nhau thì khá là tương đắc. Có thể nói Dinah có một trình độ hiểu biết sâu xa về luật pháp quốc tế, và nhất là về khác khía cạnh tinh vi độc đáo về nhân quyền mà được đặt ra trong thế giới hiện đại. Chị được nhiều đại học mời tham dự giảng dậy hay diễn thuyết về lãnh vực nhân quyền, diển hình như vấn đề tra tấn các tù nhân bị tình nghi thuộc các tổ chức “khủng bố’ sau vụ tấn công 911 ở Mỹ năm 2001, do cơ quan an ninh của chánh phủ Mỹ gây ra. Trong vấn đề này, Dinah đã không hề né tránh sự đụng chạm đến chánh quyền của Tổng thống George W Bush, mà trái lại chị đã tỏ ra rất kiên định cứng rắn trong lập trường bênh vực đến cùng cho phẩm giá và quyền con người của các bị can, theo đúng tinh thần của Bộ Luật Quốc tế về Nhân quyền (The International Bill of Human Rights), mà được Liên Hiệp Quốc công bố vào năm 1976, sau khi các công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, cũng như về quyên kinh tế, xã hội và văn hóa đã được đa số các quốc gia hội viên phê chuẩn.
Ngày 24 Tháng Sáu vừa qua, tôi lại đến thăm Dinah tại văn phòng của Human Rights Watch đặt trên tầng lầu thứ 34 của Empire State Building. Cơ quan An ninh tại đây đã xét căn cước rất kỹ rồi mới cấp cho tôi một phiếu để có thể vào khu vực đi thang máy lên trụ sở của HRW. Dinah cử người thư ký ra đón tôi ngay tại cửa của trụ sở như mọi lần. Và chúng tôi đã có thể thỏai mái chuyện trò trao đổi với nhau ngay tại văn phòng làm việc riêng của chị. Đầu tiên, tôi biếu Dinah một dĩa DVD do nhóm của linh mục Nguyễn Hữu Lễ thực hiện với nhan đề tiếng Anh là “Ho Chi Minh, the Man and the Myth” (Hồ Chí Minh, Con người và Huyền thọai). Tiếp theo tôi cũng gửi chị bản Tường trình về Tình hình Nhân quyền ở Việt nam năm 2009” do Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam” chúng tôi tại Nam California biên sọan mới đây vào đầu năm 2010. Dinah cho biết là đã được đọc tài liệu này trên internet rồi, và chị rất chú ý về tệ trạng “Buôn người” (Human Trafficking) tại Việt nam trong những năm gần đây. Chị còn cho biết là HRW sẽ giao trách nhiệm cho một chuyên viên để thâu thập đày đủ chi tiết hơn về đề tài nóng hổi đang gây ra sự quan tâm nghiêm trọng cho giới tranh đấu bảo vệ nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em cũng như người lao động tại Việt nam.


Dinah rất chú ý đến việc nghiên cứu của tôi từ trên 10 năm nay, để hòan thành cuốn sách về “Sự Phục hồi Xã hội Dân sự tại Đông Âu 1989 – 2009”. Tôi cho biết là sau 4 kỳ hè đến làm việc trao đổi với giáo sư Walter Sawatsky tại Indiana, thì hai chúng tôi đã thỏa thuận cùng hợp tác để biên sọan cho xong cuốn sách này vào đầu năm tới 2011, mà phần tôi thì phụ trách viết khỏang 200 trang, còn lại 100 trang về mục “Tôn giáo” sẽ do giáo sư Sawatsky phụ trách. Tôi cũng cho chị biết là hai chúng tôi nhằm viết cho đại chúng (general public), nên cuốn sách sẽ được trình bày rất sáng sủa, đơn giản dễ hiểu, chứ không phải là tài liệu dành riêng cho giới hàn lâm (academic) như các bài nghiên cứu trao đổi của chị với các đại học đâu. Dinah rất tán thưởng và khuyến khích cái lối làm việc kiên trì, nghiêm túc của tôi từ nhiều năm nay, tập trung vào các khía cạnh thực tiễn của sự vận hành và biến chuyển của khu vực Xã hội Dân sự trên thế giới, và đặc biệt là tại các nước cựu cộng sản ở Đông Âu trong vài chục năm nay.
Tôi cho Dinah xem qua các ghi chép của tôi tại Thư viện Quốc hội Mỹ trong suốt 6 tuần lễ tôi miệt mài làm việc ở đây vào tháng Tư và tháng Năm vừa qua, cụ thể là tôi đã nghiên cứu gần 30 bản Hiến pháp của các nước Đông Âu, của 15 nước mới tách khỏi Liên bang Xô viết, và cả đến 6 nước tách ra từ Liên bang Nam Tư nữa. Khi tôi nói là mình được may mắn vì nhờ được các chuyên viên phân tích luật pháp hỗ trợ tận tình (legal analyst), mà điển hình nhất là Peter Roudik người gốc Nga và Elisabeth Moore phụ trách phòng sưu tầm tài liệu cho Law Library của Quốc hội (documentation specialist), thì Dinah nói ngay: “Anh có được bao nhiêu nguồn cung câp vừa tài liệu có giá trị, vừa kinh nghiệm sống động của những chuyên viên rành nghề như vậy, thì nhất định là anh phải thành công thôi…”
Nói chuyện về cái duyên của tôi với Thư viên Quốc hội Mỹ khởi đầu từ 50 năm trước, lúc tôi được cử đi tu nghiệp tập sự tại trụ sở Quốc hội Mỹ từ năm 1960 dưới trào các Tổng thống Eisenhower và Kennedy, thì Dinah cũng kể lại lúc coi TV chiếu cảnh Tông thống Johnson tuyên thệ nhậm chức, ngay sau khi Kennedy bị ám sát, thì cô bé Dinah mới có 4 tuổi lúc đó đã hỏi người cha rằng : “Liệu người ta cũng lại bắn ông này nữa chăng"” Chúng tôi còn trao đổi với nhau về nhiều kỷ niệm vui buồn của bản thân mình, và tôi thật tâm cảm kích trước cái tính hồn nhiên và lành mạnh của một chuyên gia hàng đầu này, mà đã làm việc liên tục với HRW từ mấy chục năm nay, khởi sự với cấp bậc thấp nhất, rồi do khả năng vượt trội, chị đã thăng tiến lên chức vụ Cố vấn trưởng từ mấy năm nay.
Dinah có rất nhiều sáng kiến để góp ý cho công việc tôi theo đuổi trong tổ chức Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam. Cụ thể như chị bảo tôi nên thúc giục các bạn làm một cuốn video phỏng vấn nhiều người tù chính trị Việt nam, tương tự như cuốn phim do Stephen Spielberg làm về các người Do thái mà còn sống sót khỏi các lò thiêu (Holocaust) của Đức quốc xã hồi thế chiến 2. Tài liệu với hình ảnh và tiếng nói sống động như vậy mới gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu đậm hơn đối với số đông quần chúng. Tôi sẽ bàn việc này với các bạn cựu tù nhân chính trị, để cùng nhau tìm cách thực hiện cuốn video tương tự như sự góp ý của Dinah.
Trước khi chia tay, Dinah còn chỉ cho tôi xem bức tranh khá đẹp do nhà báo Như Phong tặng biếu cho HRW, mà chị vẫn treo nơi văn phòng của mình. Dinah nói : Ông Như Phong mất đi, tôi thật bùi ngùi thương tiếc một con người kiên trì tranh đấu cho Dân chủ và Nhân quyền ở Việt nam. Tôi cũng xác nhận là vào năm 1991-92, anh em tù chính trị chúng tôi cùng bị biệt giam trong một trại tù với nhau, mà không thể nào thông tin với nhau được. Quả thật nhà tù cộng sản Việt nam hồi đó thật là nghiệt ngã tồi tệ. Như tôi đã có dịp ghi lại trong Nhật ký trong tù hồi ở Hàm tân câu này: “Forgive, but not forget” (Tha thứ, nhưng mà không quên được đâu).
Lần nào gặp gỡ trao đổi với Dinah Pokempner, tôi cũng đều có thêm được ấn tương lạc quan, sáng sủa và tin tưởng mạnh mẽ hơn vào con đường tranh đấu cho Phẩm giá và Quyền Con người tại quê hương Việt nam, cũng như tại khắp nơi trên thế giới vậy. Dinah rõ rệt là một người bạn chiến đấu hết sức là dễ thương, đáng quý đáng trọng của tôi tại thành phố New York thời danh này vậy đó.
New York ngày 25 tháng Sáu 2010
Đòan Thanh Liêm 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.