Hôm nay,  

Ba Dịch Phẩm Phật Giáo Bằng Anh Ngữ Mới Của Cư Sĩ Nguyên Giác: Đóng Góp Giá Trị Vào Công Việc Hoằng Pháp

22/12/201000:00:00(Xem: 7378)

Ba Dịch Phẩm Phật Giáo Bằng Anh Ngữ Mới Của Cư Sĩ Nguyên Giác: Đóng Góp Giá Trị Vào Công Việc Hoằng Pháp

Bìa 3 tác phẩm.

Huỳnh Kim Quang
Đối với giới Phật học Việt Nam trong và ngoài nước mấy thập niên qua, cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải là khuôn mặt rất quen thuộc. Hàng chục bài viết, dịch phẩm, và tác phẩm về Thiền và Phật Pháp như cuốn “Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ,” “Thiền Tập,” “Chú Giải Về P’howa,” v.v… của cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã được nhiều người ưu thích và tâm đắc.
Mấy năm gần đây, cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã quan tâm đặc biệt và nỗ lực dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh một số bài thơ, phú, pháp thoại của các thiền sư Việt Nam nhằm mục đích giới thiệu phần nào kho tàng pháp bảo của Phật Giáo Việt Nam cho thế hệ trẻ Việt Nam học và hiểu. Trong tháng 11 và 12 năm 2010, cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã ấn hành cùng lúc 3 dịch phẩm Anh ngữ:  “Tran Nhan Tong, The King Who Founded A Zen School,” “The Wisdom Within, Teachings anh Poetry of the Vietnamese Zen Master Tue Trung Thuong  Si,” và “Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters.”
Đây cũng có thể nói là đóng góp quý giá và hữu ích vào công cuộc bảo tồn và truyền bá tinh hoa của Phật Giáo Việt Nam cho các thế hệ con em người Việt trong và ngoài nước.
Chưa nói đến lợi lạc của những dịch phẩm này có thể có đối với người học Phật Tây Phương về lâu dài, chỉ nói riêng trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã là một đáp ứng đúng lúc nhu cầu giới thiệu Phật Pháp đến với các thế hệ trẻ Việt Nam. Thực tế trước mắt mà ai cũng thấy, đó là con em người Việt tại hải ngoại ngày càng ít thông thạo hơn đối với tiếng Việt, bởi vì môi trường giáo dục, văn hóa và phát triển tất yếu của các cộng đồng di dân trên thế giới nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng. Điều chúng ta có thể thấy trước là chỉ vài ba chục năm nữa thôi, số lượng người Việt đọc và viết tiếng Việt thông thạo sẽ giảm một cách đáng kể so với hiện nay.
Đứng trước một tình trạng như vậy, những người có quan tâm đến việc truyền bá Phật Pháp trong cộng đồng Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại phải làm gì"
Khi đặt vấn đề một cách nghiêm túc như thế, chúng ta mới thấy được giá trị đích thực của những dịch phẩm Anh ngữ mà cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải vừa phổ biến.
Ba dịch phẩm của cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải vừa được ấn hành tại miền Nam California, Hoa Kỳ vào dịp cuối năm 2010, đối với bạn đọc trên các trang mạng điện toán toàn cầu của Phật Giáo Việt Nam như www.thuvienhoasen.org, www.quangduc.com, v.v… thì quả tình không phải là mới, bởi vì 3 dịch phẩm này đã được đăng trên các trang web này từ vài năm nay. Nhưng đây là lần đầu tiên các dịch phẩm này được in thành sách và biếu tặng, không bán.
2 cuốn “Tran Nhan Tong, The King Who Founded A Zen School,” và “The Wisdom Within, Teachings and Poetry of the Vietnamese Zen Master Tue Trung Thuong Si,” được xuất bản bởi Thiện Tri Thức. Cuốn “Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters,” được Tu Viện Pháp Vương ở Thành Phố Escondido, Quận San Diego, California bảo trợ xuất bản. Cả 3 dịch phẩm đều in bìa màu, đơn giản, và mỗi cuốn dày khoảng 200 trang.
Cuốn “The Wisdom Within, Teachings and Poetry of the Vietnamese Zen Master Tue Trung Thuong Si (1230-1291),” nội dung bao gồm: tiểu sử của Thiền Sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, 46 bài thơ, 11 bài đối cơ, và 13 công án. Phần tiếng Việt, cư sĩ Nguyên Giác trích từ các bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ, Giáo Sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và cố học giả Trúc Thiên. Cư sĩ Nguyên Giác có thêm một số các ghi chú ở những trường hợp đặc biệt để giúp độc giả hiểu rõ hơn nội dung bản dịch. Viết về Tuệ Trung Thượng Sĩ, trong phần tiểu sử, cư sĩ Nguyên Giác nói rằng, “Tue Trung Thuong Sy (1230-1291) had several significant roles in thirteenth-century Vietnam: being a governor, he was one of the famous military generals who led resistance against three Mongolian invasions; being a layperson, he lived a life mixed with meditation, poetry and royal glory; and being a Zen master, he had a strong influence on the founder of the Truc Lam  Zen School, which has become part of the Vietnamese culture. His religious name was Tue Trung, meaning The Wisdom Within. His title, given by King Tran Thanh Tong, was Thuong Sy, meaning The Superior Person.”
Đoạn tiếng Việt: “Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230-1291) có nhiều vai trò quan trọng tại Việt Nam thế ký thứ mười ba: là một thống đốc, ngài là một trong các vị tướng nổi tiếng những người chỉ huy cuộc kháng chiến chống ba cuộc xâm lăng của Mông Cổ; là một cư sĩ, ngài sống một cuộc đời hòa lẫn với thiền định, thi ca và hào quang vương giả; và là một Thiền sư, ngài đã ảnh hưởng lớn đối với người sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng thiền đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam. Pháp danh ngài là Tuệ Trung, nghĩa là Trí Tuệ Bên Trong. Danh hiệu ngài, trao tặng bởi Vua Trần Thánh Tông, là Thượng Sỹ, có nghĩa là Bậc Cao Tột.”


Nội dung cuốn “Tran Nhan Tong, the King Who Founded A Zen School,” bao gồm: phần tiểu sử, 10 hội của phú “Cư Trần Lạc Đạo,” phú “Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca,” 35 bài thơ, tham vấn về thiền, và đặc biệt cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải viết “Lời Thêm” ở cuối sách. Đối với người viết bài này, “Lời Thêm” (Postscript) là một đoạn văn đặc biệt lý thú, bởi vì nó có sức đẩy người đọc đi thẳng vào tâm điểm của thiền, nếu sau khi đọc qua các phần trước mà còn bị vướng cái gì đó chưa vào được. Thử đọc một đoạn trong phần “Lời Thêm” để nếm hương vị mặn mà của thiền:
“Just watch the mind. Before a thought arises, that is the formless emptiness. When a thought arises, a form appears. Before the flower is seen, that is the formless seeing. Before a sound is heard, that is the formless hearing. We are all bathing in the river of form and emptiness. The water in river is the emptiness, and the waves are the forms; they have no difference.” 
Và đây là đoạn tiếng Việt: “Hãy nhìn vào tâm. Trước khi một niệm sinh khởi, đó là cái không vô tướng. Khi một niệm khởi, một hình tướng hiện ra. Trước khi hoa được thấy, đó là cái thấy vô tướng. Trước khi âm thanh được nghe, đó là cái nghe vô tướng. Chúng ta đều đang tắm trong dòng sông của sắc tướng và cái rỗng rang vô tướng. Nước sông là Không, và sóng là Sắc Tướng; chúng không khác gì nhau.”
Cuốn “Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” gồm 90 bài thơ, pháp thoại và đối cơ của các thiền sư Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau tây lịch đến ngài Thanh Đàm ở thế kỷ thứ 19, tức là trải dài ngót 16 thế kỷ. Sau mỗi bài thơ, pháp thoại và đối cơ, cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đều có viết lời bình để giúp người đọc hiểu rõ hơn nội dung trong bài chính trích dịch.
Dịch thơ thiền đã là điều khó, đặc biệt thơ thiền mà đa phần đều từ nguyên bản Hán văn, viết lời bình cho thơ thiền, cho pháp thoại hay đối cơ thiền lại càng khó khăn bội phần. Khó vì người bình phải nắm được cái tinh yếu của bài thơ, pháp thoại hay đối cơ đó. Cũng có nghĩa là phải là kẻ trong nhà thiền mới có thể viết được lời bình chính xác và đem lại lợi lạc thực sự cho người đọc. Ngược lại, người ngoài thì không làm được, vì càng ba hoa lý luận càng dẫn mình và người đi lạc hướng.
Xin đơn cử một thí dụ, bài thứ 73 trong dịch phẩm “Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bài Như Lai (Tathagata) của Thiền Sư Thường Chiếu, đời Trần, viết:
“Tathagata
Being on earth, having human body, 
you have in your mind the Tathagata Store
illuminating profoundly in all places.
Searching for the mind, however, you will only find emptiness.
THƯỜNG CHIẾU (" - 1203)
(COMMENT: You have something in your mind" Even if you think you have something called the Tathagata Store in your mind, please drop all you have. Gently drop the mind, and observe the unborn mind. Sit down, gently breathe in and out; even if you think you have something called as the unborn mind, just drop all you have.)”
Bản dịch tiếng Việt của Thiền Sư Thích Thanh Từ và lời bình tiếng Việt của cư sĩ Nguyên Giác như sau:
Như Lai
Ở đời làm thân người, 
Nơi tâm Như Lai tạng. 
Chiếu soi cùng khắp nơi, 
Tìm đó lại càng rỗng. 
(Tại thế vi nhân thân, 
Tâm vi Như Lai tạng,
Chiếu diệu thả vô phương, 
Tầm chi cánh tài khoáng.)
Thiền Sư THƯỜNG CHIẾU (" - 1203) - Bản dịch HT Thanh Từ
(BÌNH: Bạn có những thứ gì đó trong tâm bạn" Ngay cả bạn nghĩ rằng bạn có gì đó gọi là Như Lai Tạng trong tâm, xin làm ơn buông bỏ hết tất cả những gì bạn có. Hãy dịu dàng buông bỏ tâm đi, và hãy quán sát tâm vô sanh. Hãy ngồi xuống, hãy dịu dàng thở vào và ra; ngay cả nếu bạn nghĩ là bạn có cái gì gọi là tâm vô sanh, hãy buông bỏ mọi thứ bạn có.)
Với những ai chưa nắm được yếu chỉ thiền, sau khi đọc bài pháp của Thiền Sư Thường Chiếu dễ có cảm nhận như được thêm điều gì, mà thực sự thì không được, đó chính là mất, mất bản tâm. Nhờ lời bình, người đọc như đang đưa chân bước tới vực thẳm mà không biết, lại được người đứng sau cảnh giác cho, nên vội vàng dừng lại, đúng lúc. Quý giá của lời bình trong nhà thiền là ở chỗ này.
Giá trị của 3 dịch phẩm do cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải thực hiện không phải chỉ nằm trong vài ba trang giới thiệu mà trước hết là sự thẩm sát của độc giả với sự trải nghiệm khi có cơ hội đọc qua 3 dịch phẩm này, sau nữa là lợi lạc lớn lao mà nó đóng góp cho công cuộc truyền bá Phật Pháp đối với nhiều thành phần, trong đó thành phần đặc biệt nhất là giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại.
Mong rằng nỗ lực của cư sĩ Nguyên Giác là một trong những góp phần khởi động tích cực để đẩy mạnh công tác dịch thuật kho tàng Pháp  Bảo của Phật Giáo Việt Nam sang Anh ngữ cho nhiều người cùng lợi ích.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.