Hôm nay,  

Hình Ảnh Bậc Tôn Sư Còn Hiển Hiện

23/07/200800:00:00(Xem: 8033)
(Cựu học Tăng Tu Viện Nguyên Thiều, niên Khóa 69-70.)

Hai chiếc xe đò lớn Miền Nam đã đậu sẵn trong sân Phật Học Viện Huệ Nghiêm từ sáng sớm để đưa hai chúng Hư Vân và Khuông Việt về miền Trung theo chương trình thiên chuyển của Phật Học Viện, chỉ còn chúng Thế Thân ở lại.

Tâm trạng quý Thầy học Tăng lúc bấy giờ, từ miền Nam đổi ra miền Trung, nhất là các tỉnh Phan Rang, Bình Định, ai nấy đều bồn chồn, lo lắng, nhưng vì chương trình thiên chuyển của Phật Học Viện nên phải "y giáo phụng hành" mà không dám có ý kiến. Người ở lại - chúng Thế Thân, thì dường như bàng quan, vô sự - người phải đi, chúng Hư Vân và Khuông Việt thì không tránh khỏi lo âu, lo âu vì không hiểu những chuỗi ngày sắp tới, đời sống nơi ấy ra sao" Nhưng rồi, cái gì phải đến thì sẽ đến. Tất cả quý Thầy học Tăng phổ thông vân tập trước phòng Hòa thượng Giám Viện Thích Bửu Huệ, đảnh lễ Ngài để từ giã. Hai chiếc xe đò chuyển bánh trực chỉ miền Trung, chiếc thứ nhất đổ học Tăng Khuông Việt xuống chùa Tỉnh Hội Phan Rang. Chiếc thứ hai tiếp tục đoạn đường ra Bình Định, Tu Viện Nguyên Thiều, nơi mà chúng Hư Vân theo học niên khóa 69-70 tại đây.

Trước khi vào cổng Tu Viện, xe phải đi qua cầu "Bà Gi" quẹo phải, rồi bò lên con dốc đất đỏ mịt mù, trong cái nắng chói chan, chỉ thấy sỏi đá toàn là sỏi đá. Bên phải con dốc đá sỏi ấy là căn cứ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh, bên trái đỉnh đồi là 2 tháp Chàm sừng sững với thời gian, trải qua bao lần nắng mưa tầm tã, chứng kiến bao cảnh phế hưng dâu biển, hoài vọng về quê hương, dân tộc Chiêm Thành điêu tàn, đổ nát gần như diệt chủng. Đây là quê hương tổ tiên của Chế Bồng Nga, Chế Lan Viên hay Chế Cũ, Chế Mân thời ấy.

Xuống cuối dốc bên trái là chánh điện Tu Viện Nguyên Thiều, bên cạnh phía sau là Kim Thân Phật Tổ. Xe chạy thẳng tới trước là cư xá học Tăng. Nhìn toàn cảnh Tu Viện chỉ thấy một màu đất khô đỏ, chung quanh Tu Viện được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai. Khó mà đoán được quý Thầy học Tăng đã suy nghĩ gì khi nhìn thấy khung cảnh  Tu Viện lúc ấy.

Người tiếp nhận học Tăng là Hòa thượng Đồng Thiện, Hòa thượng Đổng Quán. Nhìn qua dáng dấp của hai Ngài, hầu như ai cũng cảm thấy một chút lo lo, sờ sợ.  Cái gì đó, thật khó nói. Và cái khó nói, sờ sợ, lo lo đã đến. Sau giờ công phu khuya của sáng hôm sau, Hòa thượng Đổng Quán đã áp dụng kỷ luật, kết quả là 5 học Tăng phải xách giỏ trở về miền Nam sau mấy ngày.

Cuộc sống của những chuỗi ngày kế tiếp, bình thản, trong niềm yêu thương quý kính của tình Thầy trò, Ban Giám Đốc và học Tăng, mọi người cùng hiểu ra: bước đầu Hòa thượng Đổng Quán đã gầm tiếng hống sư tử để thử lòng học Tăng trong buổi giao thời, ai kiên cố và quyết tâm, ai tu học vì lý tưởng của kẻ xuất gia, ai giữ gìn sơ phát tâm vì chí hướng giải thoát. Quý Thầy học Tăng thấy được tâm khoan dung, lòng độ lượng của Hòa thượng đã lo lắng mọi bề cho học Tăng. Hình ảnh của Hòa thượng đến nay vẫn còn đậm nét trong tâm thức của nhiều thế hệ học Tăng chúng con.

Riêng Hòa thượng Đồng Thiện, là người nuôi học Tăng từng bữa sớm hôm, từng bát canh rau muống, tới tô bí đỏ quanh năm với hai lu tương hột đậu nành suốt tháng. Nhưng Hòa thượng vẫn kiên trì nuôi học Tăng ăn học thành tài. Tấm lòng Hòa thượng bền bỉ vững chắc như sự bền bỉ vững chắc của mảnh đất Tu Viện Nguyên Thiều. Dù nắng, dù mưa, dù khô cằn sỏi đá, mảnh đất Tu Viện Nguyên Thiều vẫn nuôi lớn cỏ cây, hoa lá, nuôi lớn những luống rau muống tươi xanh, những hàng hoa huệ trắng, để nuôi học Tăng qua những ngày tháng nắng lửa mưa dầm ấy. Tình yêu thương, bảo bọc học Tăng của Hòa thượng bao la bất biến. Tấm lòng quý kính của học Tăng đối với Hòa thượng như đàn con đối với đấng Cha lành. Một đấng Cha lành bảo bọc đàn con năm sáu chục người, Ngài phải trồng rau muống, ủ phân bò, để làm phương tiện nuôi học Tăng ăn học. Hòa thượng phải thức khuya, dậy sớm vì tương lai của học Tăng, vì giềng mối của Đạo pháp, vì hạnh nguyện Phổ Hiền mà không từ nan khốn khó. Ngày hai buổi vác cuốc ra vườn, phơi lưng dưới cái nắng hè gay gắt của miền Trung mà vun, mà xới những luống rau dền, rau muống, tía tô, rau quế, rau húng cho từng bữa ăn trưa, chiều hai buổi. Cái ân ấy, cái đức ấy, cái hình ảnh ấy vẫn luôn sâu đậm trong tâm thức của đời người học Tăng. Làm sao có thể đền đáp cái ân, cái đức vô cùng ấy" Làm sao có thể quên được cái hình ảnh nửa đêm nghe tiếng động ngoài vườn rau muống, Hòa thượng cầm đèn pin ra rọi, canh chừng sợ có người cắt trộm rau muống của học Tăng. Những bát canh rau muống đầy ắp tình yêu thương của Hòa thượng đã được tưới bằng những giọt mồ hôi của Ngài để luống đất thêm mầu mỡ, để luống rau thêm xanh tốt và để cho tình Thầy trò thêm đạo vị. Sức sống là chỗ đó. Tình nghĩa Thầy trò là chỗ đó.

Cho đến một ngày, được tin Hòa thượng Giám Viện từ Sài Gòn về thăm Tu Viện, Hòa thượng Đồng Thiện dạy học Tăng quét dọn trong ngoài đâu đó sạch sẽ để mừng đón Hòa thượng Giám Viện. Cái cốc nhỏ nhắn của Hòa thượng Giám Viện, ẩn mình dưới bóng cây xoài, cây mít, ở tận ngoài vườn xa, mà một đôi năm mới được Hòa thượng Giám Viện Nguyên Thiều, Hòa thượng Thích Huyền Quang về ở một lần.

Hòa thượng Giám Viện về thăm Tu Viện, làm mọi người náo nức, vui mừng, không khí Tu Viện như rộn ràng hẳn lên. Suốt từ ngày thiên chuyển từ Sài gòn ra đây, quý Thầy học Tăng chưa một lần được đảnh lễ Hòa thượng Giám Viện, vì Hòa thượng bận Phật sự của Giáo Hội ở Sài Gòn, chỉ có nhị vị Hòa thượng Đồng Thiện và Đổng Quán trực tiếp chăm sóc chúng Tăng, vì thế nghe Hòa thượng Huyền Quang về thăm thì làm sao không háo hức mừng vui cho được" Nỗi vui mừng này như niềm vui của những đứa con lưu lạc lâu năm, nay được gặp lại người Cha quý kính. Người Cha già ấy đã bảo bọc bao lớp đàn con, bao thế hệ đã qua, bao lớp học Tăng đã ra trường thành người hữu dụng cho đạo, cho đời mà đến nay, hình ảnh của Hòa thượng còn rõ mồn một trong tâm tư. Lời nói, ánh mắt, dáng đi của Hòa thượng hiển đạt một bậc Thạch trụ Thiền gia, Long tượng Thạc đức. Đối với chư vị Sơn Môn Bình Định, Ngài là bậc Trưởng thượng Kỳ túc, một thời đã khai sơn phá thạch để gieo hạt giống Đạo pháp ăn sâu mọc rễ trên dải đất này. Ân đức của Hòa thượng đã thấm nhuần vào từng tâm can của Tăng tín đồ nơi đây. Vì thế, mỗi lần Hòa thượng về thăm Tu Viện là lòng người cảnh vật dường như hớn hở, tươi nhuận khác thường. Đó là cái uy, cái đức, cái tấm lòng từ bi của Ngài được trang trải đến mọi loài. Giữa cảnh núi đồi khô cằn sỏi đá, với cái nắng nóng như thiêu, như đốt trên vùng đất đỏ (thời đó, 1969-1970, chưa có cây cao bóng mát như bây giờ) mà có được bóng mát của cây đại thọ, là tổ ấm của chim muông. Giữa những Tòng Lâm, Tu Viện núi đồi cách trở, mà đôi ba năm Hòa thượng mới về thăm chúng Tăng một lần thì bảo sao chúng Tăng không mừng vui, háo hức cho được. Nỗi vui như mùa nắng hạ có cơn mưa lớn, như ngày hè oi bức có ngọn gió thanh lương.

Rồi cứ như thế, thời gian đến và đi, quá khứ thành hiện tại, hiện tại thành vị lai và vị lai thành quá khứ in tuồng như ảo, như ảnh, như bóng mờ còn núp trong tâm, để sau hơn một thập niên, người học Tăng thuở nọ, dưới mái Tu Viện Nguyên Thiều, giờ lại được nhơn duyên gặp lại Hòa thượng dưới mái Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn vào những năm 1980-1981. Hòa thượng đã giảng dạy kinh điển cho học Tăng nơi đây, truyền trao những kinh nghiệm làm việc cùng tài bồi đức hạnh của người xuất gia, cách sống làm người sao cho đúng nghĩa, đó là bài công dân đức dục mà Hòa thượng đã dạy trong buổi khai giảng niên khóa đầu năm. Nhưng rồi thời gian giảng dạy của Hòa thượng cho quý Thầy học Tăng Tu Viện Quảng Hương Già Lam chưa được bao lâu, vì vận nước còn điêu linh, chướng duyên nghiệt ngã, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã bắt Hòa thượng tù đày, lao lý. Kể từ khi đó, một phần tư thế kỷ, Hòa thượng luôn đối diện với cảnh bắt bớ, đọa đày, gian nan, khốn khó. Nay thì ở nhà tù này, mai thì dời qua nhà tù khác, cuối cùng là lưu đày về nguyên quán Nghĩa Bình, nơi một ngôi chùa nhỏ, chơ vơ nơi đồng không mông quạnh. Ngày ngày với bát cơm hẩm, uống nước rong, tối ngủ trên chiếc võng bạc màu, rách nát. Nhưng tâm tư Hòa thượng vẫn sáng, sáng như gương, không chút vẩn đục. Không bị chi phối bởi cái đói, cái no, cái nóng, cái lạnh. Hòa thượng vẫn an nhiên tự tại, để đọc cho hết Tam Tạng Kinh điển, viết sách, Khoa Nghi để lưu lại cho đời sau tham học.

Dẫu biết rằng lẽ đời có thịnh, có suy, có thành, có bại, dù phải trải qua bao cảnh khốn cùng, nghiệt ngã, Hòa thượng vẫn giữ đạo trung dung, chẳng thiên vị ai, chẳng phiền hà, oán thán người đối xử tệ bạc với mình, vẫn nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng không sợ sệt, yếu hèn, vẫn đứng vững trên đôi chân trước sức mạnh súng đạn, nhà tù của kẻ vô minh. Hòa thượng là biểu tượng của đức Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Hòa thượng đã dõng dạc tiếng hống sư tử giữa núi rừng u minh thăm thẳm, giữa đêm trường hiểm ác bủa vây. Hòa thượng là đóa sen tươi nhuận trong lò lửa đỏ của thời đại.

Như lời chư Tổ đã dạy: "Huyễn thân mộng trạch" Thân huyễn nhà mộng, Hòa thượng đã xả bỏ huyễn thân để thể nhập pháp thân. Giã từ cõi mộng để thể nhập chân thường. Đường đi không vết tích, lối về bặt tăm hơi. Đó là tự tánh của Thánh Giả, của bậc Đại Sỹ xuất trần, để cho hàng đại chúng: chẳng cầm được lòng thương tiếc, chẳng dứt được lệ đau buồn cho Phật Giáo Việt Nam đã vắng bóng một bậc cao Tăng kỳ vĩ, Hòa thượng đã đem đức Đại Hùng để chấn nhiếp ma quân thời đại, đem đức Đại Lực để chấn chỉnh đạo phong, và đem đức Đại Bi để ban vui cứu khổ. Do vậy, mà thời gian gần một thế kỷ làm người, Hòa thượng lúc nào cũng như bậc đứng đầu sóng cả, cầm cân nảy mực, lái con thuyền Đạo pháp vượt sóng gian, thoát cơn bạo để đem lại sự bình an cho đạo, hạnh phúc cho đời.

Hòa thượng quảy dép về Tây đó là công viên quả mãn một thời phát nguyện độ sinh, nhưng Phật Giáo Việt Nam, Tăng tín đồ Phật tử trong cũng như ngoài nước đã thật sự trống vắng, một sự trống vắng mênh mông vô bờ.

Nhớ thuở nào, Hòa thượng kính cẩn ôm trái tim bất diệt của Bồ Tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân, đòi hỏi bình đẳng tôn giáo để giải trừ pháp nạn. Nhớ thuở nào, Hòa thượng vượt qua bao sự nguy nan, ách nạn của những bủa vây muôn trùng sắt thép để quỳ gối trước kim quan đức Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu mà cất cao lời Cẩn Bạch để nhận ấn tín truyền thừa Đạo pháp, và khởi dựng công cuộc đấu tranh bất bạo động cho công lý, nhân quyền, tự do, dân chủ. Nhớ thuở nào, Hòa thượng cất bước lên đường mà không một sức mạnh nào cản trở, cuộc viếng thăm chư Tôn Đức Tăng, Ni từ Bắc chí Nam, để thấy được hàng triệu tấm lòng chư Tăng, Ni, Phật tử ngưỡng mộ bất diệt nơi Hòa thượng. Và những thuở ấy, trên chặng đường lịch sử Phật Giáo Việt Nam còn ghi đậm nét, như những dấu ấn in sâu trong lòng Đạo pháp, quê hương, dân tộc, giống nòi. Thân tứ đại của Hòa thượng có sinh thì có diệt, nhưng tánh đức nguy nguy, tiết liệt hùng hùng của Hòa thượng thì bất diệt.

Giờ đây, những người học trò xưa của Hòa thượng dưới các mái Tu Viện năm nào, thành kính tưởng niệm Giác Linh Hòa thượng mà giở lại từng trang Pháp Sự Khoa Nghi để thấy lòng quặn thắt, không ngăn được dòng nước mắt tiếc thương một bậc Tôn Sư suốt đời xả thân vì đại cuộc. Hòa thượng vui lòng nhận nỗi khổ, trước nỗi khổ của chúng sinh, và vui sau niềm vui của nhân thế. Ấy là hạnh nguyện độ đời kham nhẫn, là Bồ Tát hóa thân nơi chốn hồng trần, khi hạnh mãn nguyện tròn thì thâu thần thị tịch, đó là tâm vô quái ngại, ý hằng tự tại trong cuộc hóa duyên của Hòa thượng, nhưng người ở lại đâu chẳng ngậm ngùi:

"Niết Bàn một thuở ra đi,
Cân bình nửa gánh, Tây quy nhẹ nhàng.
Rừng Thiền vắng bóng hạc vàng,
Biển trần vượt khỏi muôn ngàn phong ba.
Người đi dấu vết chưa nhòa,
Bát y truyền lại sương pha lạnh lùng.
Tam sanh hẹn kiếp tao phùng
Tôn phong Tổ ấn gởi cùng non sông."

Hôm nay, tất cả môn đồ pháp quyến nhớ lại Giác Linh Hòa thượng như dòng Tiểu Sử được tập thành: Xưng dương công hạnh, tán thán gia phong, chí cả bạt quần, một thời Hòa thượng đã hiển bày hóa độ:

"Dòng họ thế gia
Môn phong Nho giáo
Tuổi thơ nhập đạo
Chí lớn xuất trần
Theo Thầy học đạo chuyên cần,
Và, tùng chúng tu thân tinh tấn.
Vuông tròn bổn phận:
Phục dịch chúng Tăng;
Đầy đủ khả năng:
Dắt dìu Phật tử "
Và từ đó:
"Một bát ba y
Xuân thu du hóa
Chín tuần mười hạ
Năm tháng tịnh tu
Tăng Ni bốn chúng tùng du;
Và Phật tử mười phương quy ngưỡng.
Sơn môn Hòa thượng,
Hải chúng Trung Tôn
Rường cột pháp môn
Nối dòng đạo giáo
Chơn tâm hạo hạo
Pháp tướng nguy nguy
... thiệu phái truyền y
... kế đăng tục diệm
Phật pháp chu toàn trách nhiệm,
Sư mô đầy đủ oai nghi
Trau dồi Trí tuệ Từ Bi,
Nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng,
Thờ Thầy kính bạn
Giữ nước giúp dân
Trọn đời lạc đạo an bần
Suốt kiếp nghiêm thân tấn đạo
Hoằng dương Phật Giáo
Hàng phục ma quân
Xử thế đãi nhân
Tiếp độ Tăng chúng."

Để rồi công ấy, đức ấy như hạt sương, như cơn mưa tưới tẩm làm nhuần thắm đất tâm của bao người sùng phụng kính ngưỡng:

"Lòng mang nặng Tôn phong một gánh
Chân gập ghềnh Tổ ấn hai vai
Là người nhập thất Như Lai
Là bậc xuất gia Bồ Tát."

Nhưng rồi cái gì phải đến thì đã đến. Đến trong lúc cảnh đời nghiệt ngã, nhân tâm thác loạn, đạo lý suy đồi, giữa chốn phàm trần nhiều mộng tưởng:

"Thế rồi việc gì đã xảy ra"
Thật vô khả nại hà !
Hỡi ôi ! ... đèn thiền gió tạt!
... đuốc tuệ khói tan.
Cân bình vắng bóng Tăng hàng
Áo mão mờ trang giáo phẩm!
Để rồi:
"Ngắm phương trời lên cõi vô dư
Và, dò dẫm đất vào thành Bất thoái.
Lá rụng về cội
Nước chảy ra khơi
Ta bà xã báo một đời
Phật quốc nở hoa chín phẩm."

Giờ đây, nhục thân của Hòa thượng đang tĩnh tọa trên đỉnh đồi Nguyên Thiều thơ mộng. Bên cạnh phía sau là Kim Thân Phật Tổ đã hằn vết rêu phong năm tháng, nhưng không mất vẻ uy nghiêm, Từ bi muôn thủa nơi đấng Thế Tôn. Và phía dưới chân đồi là dòng sông Tân An rợp bóng tre xanh, bên cánh đồng lúa chín vàng. Dòng sông hiền hòa, tươi mát nên thơ của xóm làng, dân dã. Nơi đây, cứ mỗi chiều về hay giờ công phu buổi sớm, Hòa thượng nghe từng tiếng chuông u minh, tiếng đại Hồng ngân nga diệu vợi trên đỉnh đồi, gió ngàn mang đi khắp chốn:

"Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới
Thiết vi u ám tất giai văn
Văn trần thanh tịnh chứng Viên Thông
Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác
Văn chung thinh
Phiền não khinh
Trí huệ trưởng
Bồ đề sanh
Ly địa ngục
Xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật
Độ chúng sanh.
Án Dà Ra Đế Da Tóa Ha."

Dịch:
Nguyện tiếng chuông này vang khắp chốn
Thiết vi u ám thảy đều nghe
Nghe rồi thanh tịnh chứng Viên Thông
Tất cả chúng sanh thành chánh giác
Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ
Trí huệ lớn, Bồ đề sanh
Lìa địa ngục, khỏi hầm lửa
Nguyện thành Phật, độ chúng sanh
Án Dà Ra Đế Da Tóa Ha.

Tiếng chuông này, từ thời Hòa thượng còn sinh tiền đã bao nhiêu lần Hòa thượng thỉnh chuông và cầu nguyện, cho quốc thái dân an, cho Phật pháp trường tồn, cho Tăng Ni tín đồ thoát ly khổ hải. Hòa thượng một mình một bóng, lần chuỗi thỉnh chuông, niệm từng danh hiệu Phật cho đến ngày xả bỏ báo thân. Tâm Hòa thượng nhẹ như mây, bềnh bồng đó đây trong tam giới an nhiên tự tại, và thênh thang như gió, gió lộng trong hư không, mà chẳng mảy may bị cản trở.

Những hàng thông cao vút, những hàng bạch đàn reo lá với gió ngàn, tiếng kinh Mông Sơn Thí Thực chiều nay trên chánh điện sao êm đềm, thanh thoát như tiễn đưa, như cứu độ bao loài oan hồn uổng tử được siêu sanh.

Ánh trăng mười sáu soi rọi từng nhánh cây, kẽ lá trên đồi Nguyên Thiều, bóng trăng ẩn hiện, lấp lánh như muôn ngàn vì sao soi rọi bóng dáng ai bên cạnh chân Tháp, trên lối mòn dưới rặng cây, phất phơ tà áo vàng đang chống gậy trúc uy nghiêm hướng về cõi nhân gian miệng mỉm cười.

San Diego, ngày 18 tháng 7 năm 2008.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.