Quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, lần lượt được đem treo trên nóc nhà của thế giới, dãy núi Himalaya, đỉnh Everest. Quốc kỳ Việt Nam được chánh quyền một số thành phố ở Úc thừa nhận treo trong những ngày quốc lễ của Úc và của Việt Nam. Quốc kỳ Việt Nam xuất hiện trước các cơ quan đoàn thể của người Việt ở các nước của Liên Âu, phất phới bên cạnh Đức Giáo Hoàng trong đại hội Công Giáo Trẻ ở Đức. Và quốc kỳ Việt Nam được thừa nhận bởi 9 tiểu bang và gần 100 thành phố, quận hạt của Mỹ-- mà dân số trong vùng nhiều hơn phân nửa dân số Hoa kỳ. Nhân quyền Việt Nam đã đi vào Quốc Hội, Chánh Phủ hầu hết các siêu cường và tổ chức quốc tế, trở thành trở ngại trung tâm cho bang giao và giao thương của CS Hà Nối đối với nhiều nước trên thế giới. Nhân quyền Việt Nam đã là khắc tinh của CS Hà Nội và đang và sẽ thành hủy thể của chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam, do đảng CS Việt Nam độc tài đảng trị toàn diện.
Tinh thần cộng đồng và tinh thần quốc gia Việt Nam đã thành phong trào còn phát huy đều đều, dài dài, rộng lớn nữa tại các nước trên thế giới có người Việt định cư. Dù từ tốn dân tộc thế mấy đi nữa, cũng thấy rằng cộng đồng người Việt Hải Ngoại là một cộng đồng sắc tộc thiểu số, mới mẻ nhưng năng động và kiền trì bảo tồn văn hóa và chánh trị.
Nhưng sự kiện lớn nêu trên là những bằng cớ điển hình và hùng hồn đính chính những buồn phiền, than thở thường nghe thấy trong cộng đồng người Việt. Không ít những than phiền, cộng đồng nào cũng phân hóa, cũng chia rẽ ra hai ba cơ chế. Không ít mặc cảm người Việt Hải ngoại sống trên đất "tạm dung", kéo dài cuộc đời "lưu vong, thất quốc sa bang". Những cảm nghĩ đó không sai nếu xét trên bình diện lý thuyết và tổ chức hình thức xã hội. Đại đa số người Việt Hải Ngoại đã vào quốc tịch các nước định cư. Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, đã mất tư cách pháp nhân quốc tế công pháp.
Nhưng không đúng nếu nhìn cộng đồng và Việt Nam Hải ngoại trên phương diện tổng hợp qui mô của thực chất suy tư và thực tiễn hành động. Cộng đồng người Việt hải ngoại dù ở nhiều nơi có hai ba ban đại diện, nhưng tập thể người Việt tạo thành cộng đồng đó là một. Ban đại diện chia rẽ tách thành hai ba cái, chớ tập thể không phân hóa, cộng đồng vẫn là một. Mẫu số chung chống CS là một. Thân phận chung tỵ nạn CS cũng là một. Lễ Tết truyền thống, lịch sử cũng là một. Dù hai ba ban đại diện có tranh chấp nhau nhưng bên nào cũng làm những việc và cử hành những lễ trọng đại chung ấy.
Còn quốc gia, người Việt trên danh nghĩa không có đất đai, không có chánh quyền. Nhưng trong tim óc có quốc kỳ chung, có Tổ quốc Việt Nam -- và quan trọng nhứt -- có ý chí muốn sống chung nhau, muốn thuộc về nhau. Hai thành tố sau này tuy trừu tượng nhưng thân thiết, thiết thực, và tối yếu đã giúp cho người Do Thái phục hồi được quốc gia. Người Do Thái dù lang bạc khắp nơi hàng ngàn năm, sau cùng rồi cũng được và thiết tha trở về đất hứa để lập quốc. Rất nhiều học giả, tài phiệt, khoa học gia, chánh trị gia, sĩ quan gốc Do Thái và con cái thế hệ không biết thứ mấy rất xa, thúc đẩy bới ý chí muốn sống chung, và lòng mong muốn thuộc về Do Thái, hy sinh quyền lợi, danh vọng đang có ở các nước để trở về làm trưởng ấp tân sinh, người lính gác giặc, một phó thường dân mẫn cán bảo vệ bờ cõi, xây dựng và phát triển quốc gia Do Thái.
Người Việt Hải ngoại chưa gặp thời cơ như người Do Thái nhưng đang làm một cuộc vận động lịch sử cho thời cơ ấy. Người Việt phục hồi quốc gia dễ hơn người Do Thái vì đã có sẵn đất nước nhà. CS Hà Nội chỉ là một chế độ cai trị như "quan nhứt thời" mà thôi. Còn dân thì vạn đại và đang đấu tranh cho một nước Việt Nam vì dân, do dân, của dân - chớ không phải của Đảng CS. Trong nước phong trào đấu tranh đã phát triển từ tôn giáo sang trí thức, từ điểm thành phố sang diện khắp nơi trong nước. Ngoài nước, hàng triệu người Việt Hải Ngoại đang vừa học vừa làm những nhà ngoại giao bình dân trong cuộc quốc tế vận cho tư do, dân chủ nhân quyền Việt Nam, và phục hồi quốc kỳ đã có từ khi CS chưa có mặt ở Việt Nam. Người Việt Hải ngoại dù không có lãnh thổ, chánh quyền như CS đang thống tri ở nước nhà. Nhưng người Việt Hải Ngoại hành động bảo vệ đồng bào quyết liệt và hữu hiệu vạn lần hơn CS Hà Nội. Không có cuộc vận động chìm nổi ở Quốc Hội, Bộ Ngoại giao, chánh quyền địa phương các nước, thì đừng nói có chuyện công nhân Việt ở Samoa thắng kiện, phụ nữ Việt ở Đài Loan bớt bị lạm dụng tình dục, đồng bào Thượng ở Miên, thuyền nhân Việt ở Phi đước định cư ở Mỹ; thì đừng nói có chuyện quốc kỳ Việt Nam phất phới tung bay tại nhiều nơi có cộng đồng và không có cộng đồng người Việt định cư.
Tóm lại trên phương diện vĩ mô, cộng đồng Việt Nam là một thực thể thực hữu rất gắn bó với nỗi khổ của nước nhà Việt Nam. Và tính rất gắn bó đó đã làm các cộng đồng người Việt Hải Ngoại ở các nước định cư, liên minh, liên kết nhau như một liên bang Việt Nam Hải Ngoại. Kỹ thuật Tin Học, xu thế dân chủ hóa của thời đại đã giúp cho Việt Nam Hải Ngoại gần gũi nhau, liên minh hành động chung, chống CS đã cướp quyền làm người của đồng bào trong nước.