Hôm nay,  

Hòa Giải Hay Hóa Giải?

11/05/200700:00:00(Xem: 9435)

1.- TẠI SAO KÊU GỌI HÒA GIẢI

Ngày 30-3-2007, tại tòa án Huế, linh mục Nguyễn Văn Lý bị một viên công an bóp miệng không cho phát biểu ý kiến.  Ngày 30-4-2007, đài BBC (London) loan tin ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), lên tiếng kêu gọi hòa giải dân tộc.  Ông Kiệt lập luận rằng: “Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào.”

Hai sự kiện nầy xem ra mâu thuẫn nhau, nhưng thật sự có thể có liên hệ nhân quả với nhau vì hai lẽ.  Thứ nhất, hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bóp miệng được truyền đi nhanh chóng khắp thế giới, làm hại không ít uy tín ngọai giao của nhà nước Cộng Sản Việt Nam (CSVN).  Vì vậy, CSVN phải tìm cách chữa lửa.  Phát biểu của ông Võ Văn Kiệt ngày 30-4-2007, đúng một tháng sau vụ linh mục Nguyễn Văn Lý, với phóng viên đài BBC là một vòi nước nhỏ góp phần chữa đám cháy lớn.  Ông Kiệt chọn đài BBC để phát biểu vì hy vọng có thể đài BBC sẽ dịch bản tin và bài phát biểu của ông qua Anh ngữ, để cho các nước Tây phương nghe, nhằm xoa dịu bớt dư luận phương tây.

Thứ hai, dưới chế độ CSVN, có một câu cách ngôn để sống còn: “Đảng gọi thì dạ.  Đảng không gọi thì không dạ.  Đảng gọi mà không dạ là không được.  Đảng không gọi mà dạ cũng không được.”  Nhắc lại câu cách ngôn nầy để hiểu rằng không phải tự nhiên lần nầy ông Võ Văn Kiệt lại lên tiếng hòa giải. 

Không kể những nhà tranh đấu dân chủ, ngay cả những uỷ viên bộ chính trị, những tướng lãnh cao cấp, phát biểu ý kiến linh tinh mà không có lệnh của lãnh đạo đảng CS, hay đi ra ngoài đường lối đảng CS, đều bị bắt giam hoặc bị tiêu diệt, mà điển hình nhất là ông Trần Xuân Bách, một uỷ viên bộ chính trị đương quyền, vì hô hào mở rộng dân chủ, mà bị giam cho đến chết. 

Vậy ông Võ Văn Kiệt, một uỷ viên bộ chính trị về hưu, tuy phát biểu ý kiến có tính cách riêng tư, nhưng chắc chắn không phải tự ý ông có quyền phát biểu, mà phải có lệnh, ông mới dám phát biểu.  Nếu không có lệnh, ông Kiệt sẽ bị “biện pháp xử lý thích đáng”(từ ngữ của CS); nếu cần và dễ dàng nhất, là cho niêm phong tài sản kếch sù của bà vợ ông, hoặc cho tông xe chết, như kịch tác gia Lưu Quang Vũ.  Những điều ông Võ Văn Kiệt phát biểu chắc chắn phải nằm trong phương pháp “tung hứng” của đảng CSVN, về đường lối đối ngoại của đảng CSVN hiện nay. 

Hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt nói đến chuyện hòa giải.  Ông Kiệt làm thủ tướng chế độ CSVN từ ngày 8-8-1991 đến ngày 25-9-1997.  Năm 1993, khi tổ chức đón tiếp 173 người Việt ở hải ngọai tại Hà Nội, mà CSVN gọi là Việt kiều, về Việt Nam ăn Tết năm quý dậu (1993), lần đầu tiên, ông Kiệt đã đề cập đến việc hòa giải dân tộc.  Lời kêu gọi của một thủ tướng CSVN phải được hiểu là chính sách của đảng CSVN, chứ không phải là sáng kiến cá nhân của ông Võ Văn Kiệt.  Vì vậy, sau vụ linh mục Nguyễn Văn Lý, đảng CSVN tái sử dụng cái loa Võ Văn Kiệt, để tìm cách vớt vác uy tín ngoại giao.

Là người Việt Nam, ai cũng yêu chuộng hòa bình.  Từ thuở xa xưa, khát vọng hòa bình của người Việt Nam thể hiện rõ qua những địa danh khắp nước.  Ví dụ Hòa Bình, Thái Bình, Bắc Ninh, Quảng Yên, Ninh Bình, Hưng Yên, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Khánh Hòa, Tuy Hòa, Bình Thuận, Biên Hòa, Bình Dương ...  Ít có dân tộc nào trên toàn cầu mà địa danh mang tính chất hòa bình như Việt Nam.  Đặc biệt, nhịp cầu nối liền bắc nam khi đất nước bị chia hai năm 1954 cũng có một cái tên rất hòa bình, là cầu Hiền Lương (sông Bến Hải, Quảng Trị).

Trong khi đó, lịch sử Việt Nam hầu như là lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm.  Thỉnh thoảng diễn ra những cuộc tranh chấp quyền lực quyết liệt giữa các dòng họ vua chúa trong nước, nhưng dân chúng luôn luôn sinh sống trong không khí ôn hòa, không hận thù, không xâu xé lẫn nhau.  Ngay cả khi Trịnh Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, dân chúng hai miền nam bắc cũng sống yên ổn, di chuyển qua lại và liên lạc với nhau bình thường.

Tinh thần hòa ái nầy chấm dứt khi Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản, du nhập học thuyết Mác-xít, chủ trương đấu tranh giai cấp, cổ võ người Việt đánh phá, tiêu diệt người Việt, nhất là từ các cuộc cải cách ruộng đất vào đầu thập niên 50, trong đó con cái đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, anh em đấu tố lẫn nhau, làm đảo lộn luân thường đạo lý Việt Nam, và gây nghi kỵ, chia rẽ ngay cả giữa những người trong cùng một gia đình.

Về chính trị, đảng Cộng Sản Việt Nam, dưới nhiều danh xưng khác nhau, luôn luôn chủ trương độc tôn quyền lực, tiêu diệt tất cả các thành phần đối lập, những thành phần không đồng chính kiến, kể cả những người chẳng tham gia chính trị.  Đảng CSVN không bao giờ chia quyền cho bất cứ ai.  Không khí chính trị dưới chế độ CS là không khí bạo lực.  Bạo lực để chiếm quyền lực, độc tôn quyền lực, và duy trì quyền lực.  Thỉnh thoảng, gặp một số trở ngại nào đó, thì CSVN mới nói đến chuyện hòa giải.  Sau đây là vài kinh nghiệm nổi bật về việc hòa giải của CSVN trong lịch sử.

2.- KINH NGHIỆM HÒA GIẢI TRONG LỊCH SỬ

Năm 1945, sau khi chiếm được chính quyền, Hồ Chí Minh và Việt Minh (VM) cộng sản lâm vào thế bí, gặp ba áp lực cùng một lúc.  Đó là:  Thứ nhất các tướng lãnh Trung Hoa đưa quân vào Việt Nam theo quyết định của tối hậu thư Potsdam.(1)  Thứ hai, các lãnh tụ Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) từ Trung Hoa về Việt Nam theo quân Trung Hoa, quyết liệt chống đối Hồ Chí Minh và VM. Thứ ba người Pháp theo người Anh tái chiếm Sài Gòn và miền Nam, muốn tiến quân ra Bắc, tái chiếm toàn bộ Đông Dương.  Lúc đó, nhà cầm VM yếu kém về mọi mặt.  Việt Minh là một mặt trận của đảng Cộng Sản Đông Dương, trên toàn quốc chỉ có khoảng 5,000 đảng viên mà thôi.(2) 

Để hóa giải tình trạng nầy, ngày 11-11-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Đông Dương và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh làm tổng thư ký, nghĩa là đảng CSĐD rút lui hoạt động bí mật.  Bước lùi chiến thuật nầy tương tự như bước lùi của Liên Xô, khi giải thể Đệ tam Quốc tế ngày 15-5-1943. 

Ngày 23-12-1945, đại diện của VM họp với đại diện Việt Cách và VNQDĐ tại số 40 đại lộ Gia Long (Hà Nội), ký thỏa ước gọi là “hợp tác tinh thành”, gồm 18 điểm, đại khái là:

- Từ ngày 1-1-1946, một chánh phủ liên hiệp sẽ được thành lập do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch. Nội các gồm VM (2 ghế), Việt Cách (2 ghế), QDĐ (2 ghế), Dân Chủ (2 ghế), độc lập (2 ghế).

-   Quốc hội sẽ được tổ chức bầu cử ngày 6-1-1946.

- QDĐ giữ 50 ghế, Việt Cách 20 ghế.

-   Các đảng cam kết không gây hấn với nhau

Chính phủ Liên hiệp ra đời tại Hà Nội ngày 1-1-1946, và cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức ngày 6-1-1946 trên toàn quốc.  Tân quốc hội họp kỳ thứ nhất ngày 2-3-1946, cử ra chính phủ Liên hiệp kháng chiến, gồm cả những nhân vật không cộng sản như Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Ngoại giao)...

Dùng danh nghĩa chủ tịch chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 với đại diện Pháp là Jean Sainteny, để tạm hòa hoãn với Pháp.  Lúc đó, Pháp đã ký với Trung Hoa hiệp định ngày 28-2-1946, theo đó Trung Hoa chịu rút quân khỏi Bắc Kỳ và để cho Pháp thay thế ở Việt Nam. 

Thi hành hiệp định Pháp Hoa, tướng Lư Hán cùng bộ tham mưu rời Hà Nội ngày 25-6-1946 về Trung Hoa.  Lư Hán thuộc Quốc Dân Đảng Trung Hoa, thường ủng hộ Việt Cách và QDĐ.  Nay tướng Lư Hán rời Việt Nam, VM không còn bị cản trở.  Tức khắc VM liền quay qua khủng bố tiêu diệt hai đảng nầy, bất kể cuộc “hợp tác tinh thành” đã được thỏa thuận giữa các đảng phái ngày 23-12-1945 tại Hà Nội.

Ngoài việc thực hiện kế hoạch “giết tiềm lực”, tức tàn sát tất cả những cá nhân có khả năng (tiềm lực) đối kháng với VMCS trên toàn quốc, thì cuộc “hợp tác tinh thành” tại Hà Nội ngày 23-12-1945 là kinh nghiệm xương máu cho các đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc trong việc hòa giải với cộng sản.

Thông thường, mức độ cao nhất của sự hòa giải là việc ký kết hiệp ước giữa hai bên đối kháng, để giải quyết cuộc tranh chấp.  Những hiệp ước nầy càng có giá trị nếu càng được nhiều nước trên thế giới, nhất là các cường quốc, công nhận sự ký kết giữa các bên.  Những bên ký kết phải tôn trọng những điều mình đã cam kết, ghi lại trên giấy trắng mực đen và có nhiều người làm chứng.  Những người làm chứng là đại diện các quốc gia trên thế giới.

Cộng Sản Việt Nam liên tiếp ký kết các hiệp định Genève (20-7-1954) và hiệp định Paris (27-1-1973), và được đại diện nhiều nước trên thế giới chứng nhận, nhưng bất chấp dư luận quốc tế, trước sau CSVN đều vi phạm những điều do chính họ ký kết.  Hai hiệp định nầy đối với người Việt Nam quá rõ ràng nên không cần nhắc lại ở đây.  Như thế những hiệp định hòa giải chẳng qua chỉ tạo cơ hội tạm nghỉ cho CSVN, để CSVN lấy sức mà tiếp tục gây hấn, thực hiện mục tiêu xâm lăng mà thôi.

3.- HÒA GIẢI VỚI AI"

Chọn thời điểm 30-4-2007, kỷ niệm ngày chế độ miền Nam bị sụp đổ, ông Võ Văn Kiệt kêu gọi hòa giải xem ra có vẻ hợp thời.  Câu hỏi đặt ra ở đây là đảng CSVN muốn cho ông Võ Văn Kiệt kêu gọi hòa giải dân tộc với ai"  Với những thành phần đối kháng trong nước, hay với khối người Việt ở hải ngoại"  Để trả lời câu hỏi nầy, trước hết, xin nhắc lại hai sự kiện căn bản gần đây: 

Thứ nhất, ngày 26-3-2004, Bộ chính trị đảng CSVN đưa ra nghị quyết 36/NQ-TW, nhắm lôi kéo người Việt Nam định cư ở nước ngoài trở về hợp tác với nhà nước CSVN.  Từ đó, đảng CSVN tìm tất cả các cách để thực hiện nghị quyết nầy, dưới nhiều hình thức khác nhau, mà rõ ràng nhất là xuất cảng những chương trình văn nghệ để tiếp thị.

Thứ hai, sau những cuộc thương thuyết khó khăn và lâu dài, Việt Nam trở thành hội viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) kể từ 11-1-2007.  Tranh đấu để được vào WTO là chuyện khó.  Vào WTO để hoạt động hữu hiệu là một chuyện khó hơn nữa.  Muốn thế, Việt Nam cần phải cải tổ nhiều chuyện, từ cơ chế quản lý kinh tế, đến luật lệ thương mại trong nước... để thích ứng với luật lệ quốc tế, lôi cuốn đầu tư.  Một trong những mục tiêu mà CSVN muốn nhắm đến là khối người Việt ở hải ngoại, hiện nay lên đến khoảng gần 3 triệu người, với nhiều tiềm năng chất xám và kinh tế tài chánh.

Như thế, rõ ràng lời kêu gọi của ông Võ Văn Kiệt nhắm phụ họa với đảng CSVN, vớt vát uy tín ngọai giao sau vụ linh mục Nguyễn văn Lý, muốn hòa giải với người Việt ở hải ngoại, để kêu gọi người Việt hải ngoại về nước đầu tư.  Nếu quả thật đảng CSVN muốn hòa giải với người Việt hải ngoại, thì câu trả lời thẳng thắn và rõ ràng là: hiện nay người Việt hải ngoại không có nhu cầu hòa giải với đảng CSVN.  Lý do thật đơn giản: người Việt hải ngoại không có nhu cầu trở về Việt Nam lập nghiệp trở lại.  Khi bỏ nước ra đi tìm tự do năm 1975, lúc đầu người Việt gặp muôn vàn khó khăn trở ngại trên bước đường lập nghiệp tại quê hương mới.  Dần dần, người Việt ổn định cuộc sống và nhờ tính cần cù, nhẫn nại, tiết kiệm, người Việt càng ngày càng thành công về nhiều mặt ở nước ngoài.  Nay người Việt hải ngoại đã ổn định tại các nước định cư.  Tương lai gia đình, con cháu người Việt hải ngọai hoàn toàn tùy thuộc vào các nước định cư, chứ chẳng mấy liên hệ gì đến nhà nước cộng sản Việt Nam.

Cuộc sống hiện nay của người Việt hải ngoại khác xa với cuộc sống hiện nay ở trong nước dưới chế độ CSVN, nhất là về văn hóa, tôn giáo, chính trị, tự do, dân chủ.  Quen hít thở không khí tự do dân chủ ở nước ngoài rồi, không một người Việt nào muốn trở về nước để bị ngộp thở dưới chế độ toàn trị của CSVN.  Ngay cả thế hệ người Việt thứ hai hay thứ ba ở hải ngoại, học hành, đỗ đạt, làm việc và sống trong xã hội dân sự trật tự, tự do dân chủ, cũng không thể thích ứng nổi sự trì trệ, vô pháp luật của một xã hội cộng sản toàn trị tham nhũng.

Hằng năm, có hàng trăm ngàn người Việt về nước du lịch, thăm viếng bà con.  Tuy nhiên, về rồi lại đi, chứ hầu như rất ít người ở lại sinh sống hẳn trong nước.  Thậm chí, có một số ít người ở hải ngoại to tiếng ca tụng cộng sản, có thể vì muốn tự làm nổi bật, hoặc tìm thêm một tý lợi danh sau khi đã đầy đủ ở hải ngoại, chứ những kẻ nầy cũng chẳng muốn về ở lại trong nước.  Ngay cả mấy ông nhà văn thiên tả, đem sách về nước in ấn, cũng chẳng có tên nào chịu về nước định cư, để có kinh nghiệm thực tế cho công việc viết văn của mình.

Trong vài năm gần đây, nhà nước CSVN bày trò vinh danh một số trí thức người Việt ở hải ngoại.  Xin thử hỏi những kẻ nầy có mấy ai dám khăn gói đem vợ con về nước sinh sống hay không"  Ai dại gì về nước để đưa đầu cho CSVN hành hạ"  Gương Trần Đức Thảo còn đó, gương Nguyễn Mạnh Tường, Phùng Quán còn đó.  Hoặc gương Trịnh Vĩnh Bình ở Hòa Lan và công ty Tín Thành còn quá mới.

Như thế, nếu CSVN muốn hòa giải, thì không phải là hòa giải với người Việt hải ngoạI, mà phải hòa giải với người trong nước. 

4.- NẾU CSVN MUỐN HÒA GIẢI"

Ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng CSVN, hô hào: “Kẻ thù của Việt Nam là Pháp trước đây, kẻ thù Việt Nam là Mỹ sau nầy, kẻ thù Việt Nam là Trung Quốc đánh biên giới phía bắc, chúng ta cũng khép lại quá khứ được, thì tại sao chúng ta lại không khép lại quá khứ ấy mà lại cứ đố kỵ lẫn nhau"”(BBC, 30-4-2007, cập nhật 23h26GMT.)

Bài nầy chưa đề cập đến vấn đề Pháp, Mỹ, Trung Quốc.  Riêng câu hỏi “tại sao chúng ta lại không khép lại quá khứ ấy mà lại cứ đố kỵ lẫn nhau"”, thì có lẽ ông Kiệt nên hỏi đảng CSVN, chứ không phải hỏi dân chúng Việt Nam. Đảng CSVN đang có quyền, đang cầm quyền, và đang độc quyền.  Tuy dân chúng Việt Nam hiện nay ở trong nước là nạn nhân của chế độ cộng sản tòan trị, nhưng dân chúng không có việc gì phải cầu xin ân huệ hòa giải với nhà nước cộng sản.  Người cầm quyền, người có quyền, muốn tiếp tục cầm quyền, mới cần tìm sự hòa giải, để dược tiếp tục tín nhiệm mà cầm quyền.  Nếu nhà nước cộng sản không chịu hòa giải, nghĩa là không chịu từ bỏ độc quyền, mở rộng tự do dân chủ, thì sẽ có lúc dân chúng tự động nổi lên tranh đấu đòi dân quyền và nhân quyền, lật đổ chế độ cộng sản.

Ông Võ Văn Kiệt nói rằng “Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, Việt Nam là của mình...”    Mình đây là ai"  Là đảng CSVN" Là dân chúng trong nước"  Hay là người Việt Nam nói chung, kể cả người Việt hải ngoại"  Hiện nay tại các trường học trong nước, có câu khẩu hiệu rất lạ: “Yêu tổ quốc tức là yêu chủ nghĩa xã hội”.  Tại sao yêu nước lại phải yêu chủ nghĩa xã hội"  Thế thì những người không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước" 

Cũng trong cuộc phỏng vấn của BBC, ông Kiệt nói rằng: “...những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xã hội thì không yêu nước đủ như mình”.  Thế nào là “yêu nước đủ như mình”"  Nên nhớ là năm 1946, khi toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp, không phải vì toàn dân là đảng viên CS, hay toàn dân yêu chủ nghĩa xã hội, mà vì toàn dân yêu nước, đứng lên đáp lời sông núi, tham gia khởi nghĩa chống thực dân Pháp, giành độc lập cho non sông gấm vóc.  Ngày xửa ngày xưa, đâu cần chủ nghĩa xã hội mà tổ tiên chúng ta chiến đấu chống ngoại xâm một cách oanh liệt"  Các cụ ngày xưa chưa có chủ nghĩa xã hội, vậy chưa yêu nước đủ hay sao"

“Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào.”  Thế thì tại sao điều 4 chương 1 của hiến pháp năm 1992 hiện đang áp dụng ở trong nước, phỏng theo điều 6 của hiến pháp Liên Xô năm 1980, ghi như sau: "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.  Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật."  Câu nầy của hiến pháp 1992 rõ ràng xác định rằng đảng CSVN ngồi chồm hổm trên đầu trên cổ dân chúng Việt Nam, một mình giành độc quyền lãnh đạo đất nước.    

“Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, Việt Nam là của mình...”, thì tại sao đất nước lại do một đảng phái chính trị theo chủ nghĩa ngoại lai là Mác-Lênin độc quyền điều khiển"  Tổ chức chính trị nầy lại đầy tai tiếng, tham nhũng, tàn ác nổi tiếng khắp thế giới"  Thử hỏi từ khi thành lập, ngoài việc lợi dụng lòng yêu nước của dân chúng Việt Nam và nhờ Cộng Sản Quốc tế viện trợ để đánh Pháp, áp đặt chế độ cộng sản tòan trị còn khắc nghiệt hơn chế độ thực dân Pháp, CSVN đã làm được gì cho đất nước, cho dân tộc, ngoài việc đem lại tang thương, chết chóc, tù đày, bóc lột.  Nước Việt Nam thời Pháp thuộc bỏ xa các nước Đông nam Á.  Nay dưới sự cai trị của đảng CSVN, nước ta tụt hậu đến nổi ông Il Houng Lee, trưởng đại diện IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) tại Việt Nam cho rằng:  Nếu dựa trên giả thiết rằng các Đông nam Á giữ được tỷ lệ phát triển trung bình như trong 10 năm qua, thì VN có thể mất 18 năm để đuổi kịp Indonesia, 34 năm với Thái Lan và 197 năm với Singapore. (Tin các báo điện tử ngày 17-3-2006).

Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ nước ta, trong khi đảng CSVN làm chủ đất nước, lại ký hiệp ước nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cộng.  Cũng dưới thời Pháp thuộc, người Pháp bày ra một tòa án hết sức tàn bạo là Hội đồng Đề hình.  Thế mà trong phiên tòa ngày 23-11-1925 tại Hà Nội, cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đã tự do bào chữa một cách hùng hồn.  Dân chúng được tự do đến tham dự và cổ võ cho Phan Bội Châu.  Trong khi đó, tại phiên tòa ngày 30-3-2007, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa của “loài người tiến bộ” của ông Võ Văn Kiệt, linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng một cách thô bạo.  Hình ảnh nầy làm cho cả thế giới nóng lên và phẫn nộ chế độ CSVN hiện nay.  Nếu đem lịch sử ra mà ví dụ, thì không thể kể hết trong một bài báo ngắn.  Chỉ có thể kết lại rằng đảng CSVN không có quyền tự cho mình cái quyền “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội “.

Vậy nếu CSVN thực tâm muốn hòa giải với dân chúng trong nước, thì việc đầu tiên đảng CSVN phải tự kiểm và tự nhận những sai lầm nghiêm trọng đã làm cho đất nước và dân tộc sa sút như ngày nay.  Về việc tự kiểm, các lãnh tụ đảng CSVN, từ Hồ Chí Minh trở xuống thua xa vua Tự Đức (trị vì 1848-1883).  Ba tháng sau khi mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867, vua Tự Đức xuống chiếu tự nhận lấy trách nhiệm của mình đã làm cho đất nước suy yếu.  Trong bài “Khiêm Lăng ký” (bài ký đặt tại Khiêm Lăng tức lăng vua Tự Đức tại Huế), vua Tự Đức nhận tội của mình về tình trạng đất nước trước tiên tổ nhà Nguyễn, trước quốc dân nước Việt và trước hậu thế.  Có khi nào một lãnh tụ cộng sản đủ can đảm làm bảng tự kiểm như vua Tự Đức không"

Sau khi chấp nhận sai lầm và xin lỗi dân chúng Việt Nam, CSVN phải hủy bỏ điều 4 hiến pháp, bỏ tệ nạn độc quyền lãnh đạo đất nước, và phải để quyền lãnh đạo đất nước do dân chúng quyết định, bằng những cuộc bầu cử tự do dân chủ.  Đồng thời, CSVN phải chấm dứt sự toàn trị, chấm dứt sự khủng bố, mở rộng mọi quyền tự do dân chủ đã được Liên Hiệp Quốc quy định trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày 10-12-1948. 

Một khi nhà nước CSVN hòa giải được với dân chúng Việt Nam ở trong nước, thì tức khắc, xem như hòa giải được với Cộng đồng người Việt hải ngoại.  Ở ngoài nước, người Việt hải ngoại tranh đấu chống CSVN không phải vì quyền lợi, không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lương tâm dân tộc, vì tình yêu thương đồng bào trong nước, và lòng quan tâm đến tương lai dân tộc.  Một khi người Việt Nam trong nước được hưởng một cuộc sống tự do dân chủ, như các dân tộc khác trên thế giới, thì người Việt hải ngoại đương nhiên không có lý do gì để tranh đấu.

5.- HÒA GIẢI HAY HÓA GIẢI

Trong lúc vẫn chủ trương độc quyền lãnh đạo đất nước, chủ trương toàn trị, không cho dân chúng trong nước được tự do chính trị, tự do tôn giáo, tư do ngôn luận, mà chỉ kêu gọi hòa giải với người Việt hải ngoại, chẳng qua đảng CSVN muốn hóa giải những khó khăn mà CSVN đang vấp phải, chứ chẳng có hòa giải gì cả.  Cách hóa giải của CSVN rất xảo quyệt.

Sau khi chiếm miền Nam, thi hành chính sách cộng sản toàn trị, từ cuối thập niên 70, đảng CSVN gặp một số khó khăn, nhất là về phía giới tư sản người Hoa.  Đảng CSVN hóa giải bằng cách tổ chức ra đi bán chính thức, không phải chỉ cho người Việt gốc Hoa, mà cho tất cả những ai có điều kiện, vừa lấy vàng, lấy nhà cửa, tài sản, vừa xua đuổi bớt người ra đi, để tránh nạn nhân mãn và tránh chống đối.

Cách hóa giải của CSVN tiếp tục với các chương trình ODP va HO.  Những chương trình nầy tuy bề ngoài có tính cách nhân đạo, nhưng bên trong là âm mưu của CSVN nhằm đẩy tất cả những thành phần có tiềm lực chống đối CS ra nước ngoài, vì CSVN lo ngại rằng nếu những cựu sĩ quan bị tù trở về, bị dồn vào chân tường, sẽ có lúc kiếm cách cùng nhau liên kết, tổ chức chiến đấu chống nhà cầm quyền CS.

Lúc đầu, CSVN kết án những người vượt biên là đĩ điếm lưu manh, theo chân thực dân, liếm gót giày đế quốc Mỹ.  Sau một thời gian ổn định cuộc sống ở nước ngoài, cộng đồng người Việt hải ngoại càng ngày càng lớn mạnh, giàu có, gởi tiền về giúp thân nhân ở trong nước, thì CSVN thấy ngay mối lợi Mỹ kim, liền cải danh người Việt hải ngoại là “khúc ruột ngàn dặm” mà không ngượng miệng.

Để chiêu dụ người Việt hải ngoại, CSVN đưa ra những video du lịch Việt Nam, phong cảnh quê hương, gợi lại tình yêu quê hương nơi người xa xứ, nhằm lôi cuốn du khách.  Những người  Việt hải ngoại muốn về nước thăm viếng bà con, du lịch đây đó, thì ở hải ngọai thường tránh không tham dự biểu tình, hội họp chính trị, vì sợ bị chụp hình quay phim, và lo ngại CSVN không cấp giấy nhập cảnh, hoặc nhập cảnh rồi thì bị CSVN theo dõi, bắt bớ.  Thế là CSVN dùng chuyện du lịch để hóa giải bớt những người tham dự biểu tình.

Tinh vi hơn, CSVN tổ chức vinh danh những nhà chuyên môn ở hải ngoại như các vị giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư.  Qua giới giới khoa bảng nầy, CSVN muốn tìm cách tuyên truyền với giới trí thức người Việt ở hải ngoại, và giới trí thức nước ngoài ở các trường đại học Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc...  Cũng là một cách lợi dụng sự hám danh của một thiểu số trí thức để hóa giải sự chống đối của giới khoa bảng người Việt ở hải ngoại.

Tóm lại, tất cả những biện pháp gọi là hòa giải, từ mở cửa du lịch, khỏi phải xin giấy nhập cảnh nếu về Việt Nam dưới ba tháng, lời kêu gọi những những cá nhân như những phát ngôn của ông Võ Văn Kiệt, không phải là hòa giải, mà là hóa giải sự chống đối của người Việt hải ngọai.

Qua kinh nghiệm thực tế, CSVN không bao giờ hòa giải với ai cả.  Nếu có hòa giải, thì sự hòa giải đó phải hiểu theo nghĩa của CSVN: Đó là ai muốn hòa giải với CSVN, thì phải thần phục CSVN, phải chịu cúi đầu nhận sự điều khiển của CSVN.  Ngoài ra, CSVN không bao giờ hòa giải ngang hàng với ai cả.  Chỉ khi nào gặp khó khăn, lâm vào thế bí, CSVN mới đề nghị hòa giải.  Tất cả những biện pháp hòa giải do CSVN đưa ra, kể cả việc ký kết hiệp ước, cho đến những lời ru ngủ đường mật của ông Võ Văn Kiệt, chẳng qua là một cách hóa giải những khó khăn của CSVN.  Sau khi vượt qua những khó khăn đó, CSVN liền trở lại nguyên hình với bản chất độc tài, tàn bạo, toàn trị. 

Vì vậy, khi nghe những lời đề nghị hòa giải ngọt ngào của CSVN, xin hãy nhớ lấy những kinh nghiệm hòa giải đau thương của đất nước và của chính bản thân mình!

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 3-5-2007)

CHÚ THÍCH

1. Tại Âu Châu, sau khi Đức đầu hàng ngày 7-5-1945, quốc trưởng các nước Anh, Mỹ Liên Xô họp tại Potsdam, một thành phố nhỏ gần Berlin (Đức), từ 17-7 đến 2-8-1945 để bàn về tương lai thế giới. Riêng về Á Châu, vì Nga chưa tham chiến, nên Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc gởi tối hậu thư ngày 26-7-1945 cho Nhật, buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Tại Đông Dương, sau đầu hàng, quân Nhật sẽ bị Trung Hoa giải giới ở bắc vĩ tuyến 16 (ngang Tam Kỳ) và Anh ở nam vĩ tuyến 16.

2. Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Editions du Seuil, 1952, tr. 182. 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.