30 Tháng Tư Và Người Mỹ
Vi Anh
Chân lý lịch sử vẫn là chân lý, Thượng Đế cũng không thay đổi được. Chánh trị bá đạo, truyển thông thiên kiến giỏi lắm cũng chỉ phủ bụi một thời gian thôi. Về lâu về dài, khoa học vô tư, lương tâm chánh trực của Con Người sẽ làm sự thật lịch sử sáng tỏ.
Kỷ niệm Quốc Hận năm thứ 35 này là cơ hội nhiều người Mỹ chánh trực trả lại chân lý, công lý cho quân dân cán chính và chánh nghĩa của VNCH. Đó là kết quả của hàng trăm ngàn quân dân cán chính tuẫn tiết, nằm gai nếm mật trong lao tù CS để mong có ngày tự do làm nhân chứng sống, cả triệu thuyền nhân tìm sự sống trong cái chết đến được bền bờ tự do và phân nửa số đó đã bỏ mình trên biển cả đánh động lương tâm và lương tri. Nhân Lọai thấy rõ chế dộ CS Hà nội là chế độ xấu và ác đã làm người Việt phải rời quê cha đất tổ đi tỵ nạn. Một cuộc chiến tranh chánh trị hợp xu thế thời đại và nhân tâm của Nhân Lọại.
Mỗi lần 30- 4, là mỗi lần người Mỹ và người Việt chánh trực nói lên tiếng nói của lương tâm. Từ những cuộc hội luận của ĐH Texas, càng ngày càng xuất hiện nhiều những người Mỹ công minh ấy trong những ngày kỷ niệm 30-4. Nhơn kỷ niệm ngày 30-4 thứ 35 xin lượt ghi một số bài tường thuật và những ý chánh về cảm nghĩ cùng những sưu khảo của một số người Mỹ làm sáng tỏ thêm chân lý lịch sử ấy.
Trong cuộc Hội Thảo 'Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại' tại Washington D.C: Tiến sĩ Stephen Randolph, cựu đại tá Không Quân, phó khoa của Đại Học Không Quân Quốc Gia, tác giả cuốn sách có tên: “Powerful and Brutal Weapons: Nixon, Kissinger, and the Easter Offensive,” do Havard University Press xuất bản. Ông “Tổng thống (Nixon) sợ là phá hủy vũ khí của Bắc Việt sẽ ảnh hưởng không tốt đến tương quan với Bắc Kinh.” Việt Nam và Hoa Kỳ thua cuộc “là vì lý do chính sách,” và vì Hoa Kỳ lúc đó “has a bigger fish to fry” .
Còn thứ trưởng John Negroponte, một nhà ngọai giao kỳ cựu phục vụ qua nhiểu trào tổng thống, thì nói Tổng Thống Johnson đã quá kiệt sức, không “deal” nổi với cuộc chiến đó nữa. “Nên nhớ là sau đó Johnson quyết định không tái ứng cử nữa. Ông đã quá mệt mỏi!”
Nhiểu những người Mỹ nổi tiếng về Chiến tranh VN như Sử Gia Dale Andrade (Trung Tâm Lịch Sử Quân Đội Hoa Kỳ, người đã viết ba cuốn sách về cuộc chiến Việt Nam: “Ashes to Ashes: The Phoenix Program and the Vietnam War”, “Spies and Commandos: How America Lost the Secret War in North Vietnam”, and “America’s Last Vietname Battle: Halting Hanoi’s 1972 Easter Offensive”), Tiến sĩ John Carland (Trung Tâm Lịch Sử Quân Đội Hoa Kỳ, có mặt và phát biểu trong cuộc hội luận đều đồng ý cần phải trả sự thật cho lịch sử, và danh dự cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh, cũng như ghi ơn những người đã nằm xuống.
Tiếp theo là Giáo sư Robert F. Turner qua tác phẩm “Nhớ Về Việt Nam - Ký Ức 35 Năm Trước,” viết: “...những người công kích chế độ này đã bị Hà Nội đánh lừa...” Ô. Robert F. Turner, là một nhân chứng sống trong Chiến tranh VN, ngay tại VN. Hiện thời Ông là một tiến sĩ có bằng sư phạm, dạy cấp cử nhân đến tiến sĩ về chiến tranh cho Trường Hải quân Hoa Kỳ và Đại học Luật khoa Virginia School of Law, và sáng lập viên Trung tâm Nghiên cứu An ninh Luật pháp vào năm 1981. Ông đã viết và xuất bản hàng chục cuốn sách, cụ thể như "Vietnamese Communism", "The Real Lessons of the Vietnam War" và "To Oppose Any Foe". Ông làm Sĩ quan Phụ tá các Chương trình Đặc biệt của Phòng "Bắc Việt và Việt Cộng" trong cơ quan JUSPAO. Từ 1968 đến 1975, ông đã năm lần qua Đông Dương, hoạt động nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và cả Lào cùng Cam Bốt. Ông đã gặp Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành tại Sàigon vào tháng Năm năm 1974, Ông thấy ...những người công kích chế độ này [VNCH thời TT Nguyễn văn Thiệu] đã bị Hà Nội đánh lừa...”.
Ông từng nghe Đại sứ Martin suốt 20-30 phút đã "xả ra" những uất ức - phê phán hầu hết mọi người tại thủ đô Washington và nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải có trách nhiệm tinh thần với người dân miền Nam Việt Nam.
Ông nói người Mỹ đã thất hứa ngay với những trẻ em hết cô nhi viện này tới viện dục anh khác, bảo đảm sẽ có trực thăng đưa các em và gia đình tới nơi an toàn, nhưng trực thăng lại tới nơi khác để bốc người Mỹ.
Ông thật ân hận. Ông hy vọng những kỷ niệm này - cảnh cha mẹ hốt hoảng, lạy van ai đó cứu lấy con mình trước khi cộng sản vào, những đứa trẻ mồ côi bất lực, và mấy triệu người mà Hoa Kỳ đã cam kết bảo vệ - cũng sẽ phai mờ cùng năm tháng. Chuyện ấy không xảy ra, và tôi biết là sẽ đem theo những hình ảnh đó xuống huyệt.
Ông cầu nguyện xin Thượng Đế cứu vớt linh hồn của các nạn nhân - kể cả 58.196 người Mỹ đã hy sinh đến tuyệt đối cho một lý tưởng cao đẹp. Xin Thượng Đế hãy ban phước lành cho những người bị bỏ lại để sống dưới ách độc tài, và trong nhiều trường hợp, dưới nạn diệt chủng. Nhưng (Ông cay đắng) nói nếu có một chút công lý thì những kẻ như John Kerry, Ted Kennedy, Frank Church, Clifford Case, J. William Fulbright và một lũ khác nữa, sẽ phải mục nát dưới Địa Ngục.
Kế đó Gs Robert F. Turner, nói trên Đài VOA, tiếng nói chánh thức của Hoa Kỳ nhơn ngày 30-4- 2010. Không những nói mà Ông viết để hậu thế cùng xem. Ông gọi những người bức tử VNCH tại Mỹ là “Ameri-cong”, trong cuốn sách của Ông: “Comrades in arms: How the Ameri-cong won the Vietnam war against the common enemy-America”, tạm dịch ngắn gọn là “Mỹ-cộng đã chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam chống lại kẻ thù chung của nước Mỹ như thế nào”.
Chữ Mỹ Cộng (Ameri- cong) là tiếng của Gs Robert F. Turner, người Mỹ thứ thiệt, xài chớ không phải do người Mỹ gốc Việt đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyển VN bị CS tuyên truyển là nặng quá khứ nên quá khích với CS đặt ra. Tiếng đó Gs Tiền sĩ dùng để đặt tựa quyển sưu khảo của Ông” Một danh từ mới vì từ lâu người ta nói Trung Cộng, Việt Cộng, chớ chưa ai dùng chữ Mỹ Cộng. Ở Mỹ chữ “xã hội chủ nghĩa” là một chữ bị mất cảm tình, mà Ông dùng chữ Mỹ Cộng, kể ra nặng lắm. Theo Ông những người Mỹ này là Mỹ Cộng, cũng như TC, VC coi Mỹ là đế quốc, là “kẻ thù chung.”
Những Mỹ Cộng đó nằm trong các phong trào hòa bình-phản chiến, ảnh hưởng khuynh lóat truyền thông Mỹ làm Mỹ thua tại sân nhà của Mỹ là ở Washington DC và ngay trên đất Mỹ. Chớ quân Mỹ không thua trận do bị cộng sản Việt Nam đánh bại trên chiến trường.
Chiến tranh VN, theo Ông là một cuộc chiến chính trị hơn là một cuộc chiến quân sự. Người cộng sản lúc bấy giờ hiểu rõ điều đó trong khi người dân Mỹ thì không. Hầu hết những gì người Mỹ hiểu về cuộc chiến Việt Nam là sai lầm, bởi vì phần lớn những gì được ghi lại trong sách vở là sự tuyên truyền của cộng sản Việt Nam.
Tiếp theo là Ô Bruce Herschenson, cựu Giám đốc Điện Ảnh của USIA nói qua tác phẩm An American Amnesia, cho rằng Miển Nam mất vì những chánh trị salon. Đó là những nhà báo Mỹ đóng đô ở khách sạn Caravelle sáng chế ra một loại hình truyền thông khách sạn một chiều, qua truyền hình ABC, CBS, tạp chí Time, Newsweek hướng dẫn dư luận Mỹ thành phản chiến, nhứt là những dân biểu nghị sĩ nhà nghề lão làng mất quan điểm quần chúng. Thời đó chưa có CNN, MSNBC, và Fox như bây giờ.