Phương Tiện & Mục Đích, Viết cho em dâu: Cảm nghĩ về Thầy Nhất Hạnh
Lê khánh Thọ - France
Huệ Anh mến,
Chị cám ơn em đã gởi bài của Đan Tâm viết về thiền sư Nhất Hạnh, http://www.bacaytruc.com/index.php"option=com_content&task=view&id=2084&Itemid=37
Chị có đôi lời góp ý:
1- Đan Tâm viết: “Về quan điểm chính trị, thiền sư có khuynh hướng thiên cộng. Ngay từ năm 1967, khi rời nước để đi dự Đại Hội Phật Giáo, ông tham gia các cuộc biểu tình phản chiến ở Hoa Kỳ”.
Theo chị, xét trên cương vị nhà tu thì hành động kêu gọi ngưng chiến thể hiện tâm từ bi, đó chỉ là phương tiện đi đến mục đích tránh thảm họa chết chóc. Giáo sư Bác sĩ y Khoa Nguyễn xuân Hiền thuộc cục quân y, phục vụ tại Quân Y viện 108, viết trong một lá thư gởi cho Thiền Sư nhân các đại Trai đàn chẩn tế năm 2007: “...Thiền Sư đã làm sáng tỏ một chân lý mà trước đây nhiều người chưa thấy hoặc đã thấy nhưng chưa tiện nói ra, đó là: “Cuộc chiến tranh chống Mỹ vừa qua thực chất là một cuộc huynh đệ tương tàn, đối đầu giữa hai “tiền đồn” dùng vũ khí và học thuyết của hai khối nước ngoài để chọi nhau” Xem bài: Nồi da xáo thịt huynh đệ tương tàn: http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/TDTS_4/10_Huynhdetuongtan.htm
2- Đan Tâm viết: “Ngày 13/11/08 công an Lâm Đồng kết tội Làng Mai đã vi phạm pháp luật Tấn phong giáo phẩm không thông qua GHPGVN”.
Chúng ta ai cũng biết dối trá, chụp mũ gian xảo là món nghề ruột của Cọng sản. Làng Mai đã xác nhận: “ Về bổ nhiệm trụ trì và tấn phong giáo phẩm, trong ba chuyến về Việt nam, thiền sư Nhất Hạnh không có văn bản bổ nhiệm trụ trì nào hết, không văn bản tấn phong giáo phẩm nào hết” (www.phusa.info11/11/08 Lê Nguyên 1329/TGCP – PG Tờ Khai Tử quyền Tự do tôn giáo: http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/TDTS_5/42_1329.htm)
3- Đan Tâm viết: “Các “Giới Luật” của nhà Phật, sư Thích Nhất Hạnh đều không tôn trọng: thầy quá giàu có, nhiều tiền bạc, chủ nhân ông của Làng Mai và ba tu viện bên Hoa Kỳ”.
“Giới Luật” của nhà Phật không phải chỉ giới hạn chừng đó. Thầy Nhất Hạnh tu “Bồ Tát Hạnh”. Thầy giàu có do công sức lao động trí óc. Thầy là giảng sư đại học, viết sách... Thầy không xử dụng tiền bạc hưởng thụ cá nhân, Thầy thực hành Bồ Tát Hạnh vào việc điều hành những tu viện và giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Tiền bạc của Thầy chỉ là phương tiện đi đến mục đích thực hiện tâm từ bi và giúp thiền sinh tu học. Thầy làm ra nhiều tiền bạc như vậy, nhưng ai về Làng Mai sẽ thấy ở đó không có tượng Phật sơn son thiếp vàng, không có salon, trường kỷ sang trọng, thiền đường, Phật đường, tăng xá,... là những chuồng bò, chuồng ngựa, chuồng cừu, chuồng heo của nông trại cũ sửa lại. Còn Thầy thì ngủ trên 1 cái gường làm bằng 4 cục gạch kê lên 1 tấm ván, và chiếc niệm mỏng. Chị đề nghị em đọc bài: Một vị thầy sống hạnh nghèo nàn: http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/TDTS_4/SCD2_Motvithay...htm
4- Đan Tâm viết: “Thầy họp hành, giao hảo với Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nhà nước Việt nam”.
"Không dám vào hang cọp làm sao bắt được cọp". Theo chị, đó chỉ là phương tiện đi đến mục đích gieo trồng Chánh Pháp vào quê hương.
5- Đan Tâm viết: “Nhìn hình thầy đi dưới lọng vàng của bọn Phật giáo Quốc Doanh, ai dám nghĩ thầy là bậc chân tu"”
Chị vẫn nghĩ Thầy là bậc chân tu. Bên cạnh hình Thầy đi dưới lọng vàng thì có bao nhiêu tấm hình Thầy đội nón lá!" Lọng vàng có thể của bọn Phật gíáo Quốc Doanh làm trò, mà cũng có thể của những Phật tử muốn bày tỏ lòng tôn kính Thầy. Tiền bạc Thầy không đụng tới thì lọng vàng, nón lá, hay tàu lá chuối cũng giống nhau thôi, đó chỉ là phương tiện với mục đích che nắng che mưa. Sao Đan Tâm không nhắc tới hành động Thầy từ chối không vào thăm lăng Hồ chí Minh!"
6- Đan Tâm viết: “Tuy nhiên cái tệ hại nhất là Thầy ngạo nghễ, định phát triển ở VN “Dòng Tiếp Hiện của Sư Ông” cho phép tăng ni lập gia đình. Như vậy là đã phạm vào hai chữ “Ái Dục” mà Phật pháp tuyệt đối ngăn cấm”.
Cuộc đời là một trường học vĩ đại mà trong đó phần lớn con người chỉ học được các bài học cần thiết qua yếu tố đau khổ ( Dấu chân trên cát – Nguyên Phong dịch).
Đầu năm 2008 chồng chị bị ung thư gan giai đoạn cuối, anh từ Mỹ về Sài gòn chữa trị thuốc Nam, chị cũng từ Pháp về với anh 3 tháng. Kỷ niệm êm đẹp nhất của tụi chị là mỗi ngày chị nằm ôm tấm thân còm cõi bịnh hoạn của anh trong vòng tay, cả hai im lặng tập trung tư tưởng vào những bài thuyết pháp phát ra từ CD. Lòng không gợn “Ái Dục”, khi đó chị là một đồng đội, là tri kỷ, là người bạn đồng hành đi bên anh trong giờ phút thân xác anh rã rời, tinh thần anh bấn loạn. Đầu tháng 10/08 ở Pháp chị nhận tin anh qua đời, chị của anh cho biết anh ra đi trong giấc ngủ an bình, trước vài giờ anh gọi chị anh và bình tĩnh báo tin anh sẽ đi trong đêm đó, anh còn vui vẻ pha trò nói lời giã biệt.
Trước khi tin lời Đan Tâm, chị đề nghị em đọc nguyên văn 14 giới của dòng tu Tiếp Hiện, chú ý : Dòng tu này có đủ 4 chúng, gồm 2 chúng tại gia (nam, nữ) và 2 chúng xuất gia (nam, nữ).
Do đó giới thứ 14 có 2 phần khác nhau:
-giới 14 cho chúng tại gia
-giới 14 cho chúng xuất gia.
14 Giới Tiếp Hiện
Đây là Giới thứ nhất:
Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.
Đây là Giới Thứ Hai:
Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể cởi mở và đón nhận tuệ giác và kinh nghiệm của người khác. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch, và tuệ giác chân thực chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút.
Đây là Giới thứ ba:
Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức kẻ khác vâng theo ý kiến của mình, con nguyện không ép buộc người khác, kể cả trẻ em, theo quan điểm của con, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải dùng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.
Đây là Giới Thứ Tư:
Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ, con nguyện không trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của chúng sanh. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những khổ đau hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con biết rằng sự thật thứ tư là đạo đế chỉ hiển lộ khi nào con quán chiếu và thấy được tự tánh của sự thật thứ nhất là khổ đế, và con sẽ luôn luôn nhớ rằng mục đích của sự tu tập là chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc.
Đây là Giới Thứ Năm:
Ý thức rằng hạnh phúc chân thực không thể đạt tới được bằng tiền tài và danh vọng mà chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình. Con nguyện tập sống giản dị và học chia xẻ thì giờ, khả năng và tài vật của mình với những kẻ thiếu thốn.
Đây là Giới Thứ Sáu:
Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra đau khổ cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc và đối xử với năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con và phương pháp quán chiếu để nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành ngoài trời để chăm sóc tâm niệm sân hận và oán thù của con bằng năng lượng chánh niệm và để nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con cũng nguyện sẽ học hỏi nhìn sâu vào tự tánh của người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù của con và để có thể nhìn được người ấy bằng con mắt từ bi.
Đây là Giới Thứ Bảy:
Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, và ta chỉ có thể sống an lạc ngay trong giây phút ấy, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con, để liên tục gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con, làm động lực chuyển hóa chiều sâu tâm thức và đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.
Đây là Giới Thứ Tám:
Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét và chỉ trích và không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa trong đoàn thể và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Con nguyện tu tập để tái lập sự truyền thông giữa con và mọi người khác, và đề giúp giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ.
Đây là Giới Thứ Chín:
Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện luyện tập để chỉ nói những lời nói chân thật có tác dụng hòa giải, gây niềm tin tưởng và hy vọng. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù, không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể đem lại sự đe dọa cho sự an thân của mình.
Đây là Giới Thứ Mười:
Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng các đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về những tình trạng áp bức và bất công xã hội và có thể sử dụng ảnh hưởng mình để chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.