35 Năm Quốc Hận: Vạn Lý Thăm Chồng – Thu Thuỷ
Đã gần 19 năm sống tha hương, mỗi lần nhìn mưa phùn rả rích lất phất rơi đem theo cái lạnh cắt da, mình cảm thấy lòng se thắt lại, nhớ hoài kỷ niệm thật buồn khi cùng ba con nhỏ dại băng rừng vượt suối ra tận Thanh Hóa tiếp tế lương thực cho anh Trường. Chuyến đi nhiều gian nan ấy hằn sâu trong tâm khảm mình mặc dầu đã 21 năm rồi từ ngày bốn mẹ con dắt díu khệ nệ khiêng từng thùng thiếc bao bị đệm cả hơn trăm ký lô đồ ăn lên tàu Thống Nhứt ra Thanh Hóa. Mình còn nhớ rõ buổi chiều ấy thật ảm đạm, nắng đã tắt từ lâu như tia hy vọng mong chồng được thả về đã tiêu tan, lòng nặng trĩu âu lo, mình cùng cậu Thu em trai của chị Tố Nga chuyển các thùng đồ ăn nặng trĩu lên tàu (chồng chị Tố Nga cùng ở chung trại Thanh Hóa, chị cảm thông mình đơn chiếc yếu đuối nên cho em trai ra ga Lê Lai phụ mình). Sau khi đã kiểm kỹ lại các thùng thiếc và chắc chắn không cái nào bị mất mát, cho các con ngồi vào toa xong, mình vội vã cám ơn cậu Thu, lúc ấy cũng hấp tấp nhảy mau ra khỏi toa vì một hồi còi tàu rú lên, báo hiệu tàu sắp rời ga.
Lần đầu tiên trong đời được đi xe lửa, ba con mình ngạc nhiên lạ lùng mở to mắt nhìn các trẻ nhỏ cùng lứa tuổi đang nô đùa trong các dãy nhà san sát cạnh đường rầy dọc theo xóm Bàn Cờ, Hòa Hưng, Phú Nhuận, Bình Triệu. Mặc dầu mình đã nói trước với các con là bốn mẹ con sẽ đi thật xa ra Bắc thăm Ba, đem đồ ăn tiếp tế cho Ba nhưng hai đứa con trai còn quá nhỏ, trí óc non nớt không mường tượng nổi rằng đây là cuộc hành trình gian nan dài cả 1200 cây số. Chỉ có con gái đầu lòng Thủy Tiên khôn lanh và lớn hơn, mơ hồ cảm thấy không phải là một chuyến đi bình thường nhiều thú vị như khi xưa cùng đi với cả gia đình ra Vũng Tàu hoặc lên Đà Lạt. Thủy Tiên thu mình lại, ngồi rúc vào một góc băng, cặp mắt xoe tròn, lo âu nhìn các hành khách xa lạ chung quanh. Sơn, Tùng vô tư lự và hiếu động, ngồi không yên, tò mò chạy lăng xăng trong toa. Mình xót xa nhìn các con thầm cầu nguyện cho bốn mẹ con được bình an suốt cuộc hành trình.
Đêm đến bốn mẹ con co rút ngồi sát vào nhau, cố dỗ giấc ngủ một cách khó khăn. Đùi mình tê cứng, sưng húp lên vì muốn cho các con được ngủ thoải mái, mình luân phiên kê đầu mỗi đứa trên đùi mình, để các con đỡ mệt. Lưng mình đau rã rời vì ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ bất động. Ngồi kiểu nầy suốt ba ngày ba đêm chắc chết mất, mình nhủ thầm, ngao ngán và mệt mỏi. Liếc mắt thấy các người đồng hành mạnh ai nấy tìm một khoảng trống nhỏ dưới chân hoặc ngay cả lối đi chật hẹp để trải tấm nylon nằm cho đỡ mỏi lưng, mình cũng bấm gan trải đại các tờ báo dưới băng, kêu Sơn Tùng thu mình co chân lại nằm đỡ, nhờ vậy Thủy Tiên có thể tạm thời nằm dài ra trên băng cây (có đến ba người lớn ngồi chen chúc trên một băng). Mình thì chịu đựng hết nổi, lăn kềnh ra ở lối đi, đắp vội cái khăn quàng cổ lên mặt để bụi cát từ giày dép các hành khách qua lại không rơi vào mắt. Chưa bao giờ mình thấy thấm thía câu "buồn ngủ gặp chiếu manh" như lúc nầy. Bốn mẹ con nằm được "thoải mái" hơn, đỡ tê cóng chân tay, nên mệt mỏi ngủ thiếp đi, đến sáng lúc nào không hay, mặc dầu trong đêm bao nhiêu chân thản nhiên bước qua người và đầu cổ mình. Thiên hạ nằm la liệt: người lớn thì tràn ngập lối đi, trẻ con nhỏ người hơn cố chui rúc xuống gầm băng, các bộ đội quen ngủ võng trong rừng thì treo võng nằm vắt vẻo như vượn, đong đưa qua lại tỉnh bơ trên đầu hành khách. Quang cảnh trong toa thật hỗn độn chưa từng thấy: tiếng ho, tiếng khạc nhổ, tằng hắng, tiếng trẻ nhỏ la hét khóc ban đêm, xen lẫn tiếng đập ruồi muỗi chát chúa, chưa kể lâu lâu nước tiểu trẻ con đái dầm ban đêm chảy dài loang ra sàn thối tha dơ bẩn.
Trời hừng sáng bốn mẹ con lồm cồm ngồi dậy, áo quần nhớp nhúa hôi hám, phờ phạc người, thấy ai nấy đều lấm lem, lấy lon hoặc ca súc miệng, phun ra cửa sổ toa, làm vệ sinh lau mặt ngay tại toa. Ban đầu còn ái ngại, sau đó mình cũng quen đi, thản nhiên cho các con súc miệng như mọi người. Tàu ngừng ở các ga lẻ ở miền Trung, cảnh buôn bán tấp nập vô trật tự: ai cũng hấp tấp mua bán vì sợ tàu chạy bất thình lình, không kịp đưa hoặc thối tiền.Thôi thì tiếng la ó cãi vả mắng chửi chí chóe nổi lên, đinh tai nhức óc. Thủy Tiên, Sơn, Tùng mừng rỡ vì được dịp ăn các món cháo lòng, miến gà, cơm tấm bì, cơm sườn, hột vịt lộn, bán dọc theo các ga. Đã 5 năm nay từ sau 75, quen ăn uống kham khổ, các con ngạc nhiên thấy lần nầy mình cứ mua tới tấp đồ ăn, đâu có ngờ rằng sở dĩ mình phung phí là mình lo các con mệt đói, ngã bệnh không đủ sức để tiếp tục băng rừng vô trại. Mình thì ngao ngán ăn uống qua loa cho có sức cầm cự, nôn nóng mong sao cho tàu mau đến Thanh Hóa, chán chường nhìn thắng cảnh qua cửa sổ mặc dầu dọc đường có biết bao bãi biển xanh biếc, núi non hùng vĩ của miền Trung.
Sau ba ngày trời ròng rã sống trong địa ngục hôi hám của toa xe chật chội dơ dáy, bốn mẹ con đến Thanh Hóa. Lại một phen chật vật, chen lấn, mồ hôi nhễ nhãi, bốn mẹ con mới khệ nệ khiêng đủ các thùng thiếc nặng cồng kềnh xuống ga. Thật là "trầy da tróc vảy" vì chỉ cần sơ hở một chút thì bị mất cắp đồ hoặc bị móc túi ngay. Sơn mới mười tuổi đầu hơn còn Tùng chưa đầy chín tuổi, nhưng đã tỏ ra bảo bọc che chở má và chị yếu ớt, giành xách các bao bị đệm to. Nhìn các con nhỏ bé khẳng khiu oằn vai dưới gánh nặng mình đau lòng tủi thân vô cùng. Vì đâu mà nên nỗi nầy" Mình cắn răng để khỏi bật khóc, mím môi nhìn lên trời xanh, thầm cám ơn ơn Trên đã phù hộ bốn mẹ con đi đường bình an vô sự.
Đường vào trại xa cả năm chục cây số mà đã xế chiều, không còn xe đò đi ngang trại, nên bốn mẹ con đành phải vào tạm trú ở nhà trọ gần ga. Nói là nhà trọ, nhưng thật sự chỉ là những tấm phên tạm dựng lên sơ sài, trong có nhiều giường tre ọp ẹp cho khách mướn nghỉ đêm đỡ, đợi sáng sớm hôm sau lấy xe đò vô trại. Bốn mẹ con kinh hoàng chui rúc nằm trên chõng tre cũ kỹ xiêu vẹo. Mình lấy các thùng thiếc bao bị sắp xếp lại, và tấn xung quanh cái mùng rách nát vá víu cả trăm lỗ, vì nghe nói đồ ăn để ngoài mùng sẽ bị chuột cống chiếu cố. Đêm đó mình phải đương đầu, dương Đông kích Tây với lũ muỗi đói vo ve bay tới tấp, xuyên theo các lỗ rách của mùng. Nhưng hãi hùng nhứt là mục kích từng đoàn chuột cống kếch xù đánh hơi mùi đồ ăn, chạy lúc nhúc xung quanh các thùng thiếc y như những bóng ma trong các phim kinh dị. Nửa đêm, Sơn bị "tào tháo rượt", mình phải bấm gan rùng mình dẫn con ra nhà vệ sinh nhớp nhúa tận sau hè, tối om và thối tha. Hai mẹ con sợ hãi gớm ghiếc không dám nhìn cái thùng phẩn đầy dòi bọ và tiếng ruồi nhặng, lại càng thêm rùng mình rợn xương sống khi trở về giường dưới bóng cây đa, với tàn lá âm u ma quái.
Tờ mờ sáng, mình giật mình vội đánh thức các con dậy để cùng nhau gom góp hành lý, khập khểnh khiêng lần ra bến xe đò gần đó, sắp hàng mua vé. Chen vai thích cánh với làn sóng người hỗn độn, nón lá rách bươm, mình mớỉ khổ sở giành giựt mua được vé xe đò vào gần trại. Sau khi chuyển được đồ đạc lên xe, mình thở phào ôm các con ngồi vào băng phía cuối xe. Mình tự phục thầm lấy mình là không hiểu có sức mạnh phi thường nào mà mình có đủ sức cùng các con khiêng lên xe cả trăm kí lô lương thực. Chiếc xe đò già nua sét rỉ, chậm chạp lăn bánh... Gió mát buổi sáng tinh sương hiu hiu thổi, Thủy Tiên, Sơn, Tùng lim dim ngủ gà ngủ gật, vì đêm qua không được ngon giấc bởi lũ chuột và muỗi. Nhìn các con ngủ thơ ngây như thiên thần, mình cảm thấy ruột gan se thắt lại. Một ông lão nông dân ngồi gần thấy cảnh bốn mẹ con lặng lẽ nắm tay nhau, thu mình trong góc xe, tỏ vẻ ái ngại hỏi thăm. Mình bâng quơ trả lời qua loa, lòng tự ái không muốn ai thương hại. Lâu lâu đi ngang các ổ gà, xe giằng mạnh, tung xốc các hành khách ruột gan như muốn lộn ra ngoài. Xe chạy độ một tiếng rưỡi thì ngừng trước một lều tranh được dựng bên đường, nơi điểm hẹn sẽ có xe trâu mỗi ngày từ trại ra đón các thân nhân trong Nam ra thăm nuôi trại viên. Bốn mẹ con tụt xuống xe, quần áo xốc xếch đầy bụi bặm, mặt bơ phờ thiểu não.
Mình vội kiểm lại đồ đạc, mừng rỡ thấy không bị mất mát hư hao vì trộm cắp và lũ chuột. Mình xoa đầu ba con khuyến khích khen: "Các con giỏi lắm, đã phụ Má xách đồ ăn nặng cho Ba mà lại ngoan nữa. Ba sẽ rất mừng gặp lại các con và biết ơn Má con mình đã đem đồ ăn ra cho Ba". Thủy Tiên, Sơn, Tùng lặng lẽ không đáp, chỉ nắm chặt tay mình lại, lòng mình ấm lại, bao nhiêu nỗi nhọc mệt như tan biến, vì biết rằng bên mình còn có các con ngoan. Mình nhủ thầm : "Can đảm lên! Mình đã gần tới đích rồi! Đường đi dầu có hiểm trở cách mấy, mình cũng không ngại. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa thôi! Cố gắng lên!"
Đúng như các chị bạn đi thăm nuôi trước đã nói: một lát sau tới giờ hẹn, một người đàn ông đánh xe trâu lù lù tiến ra lều tranh. Bốn mẹ con mừng rỡ, lại một phen vất vả, chất đồ đạc lỉnh kỉnh lên xe, sau đó lầm lũi theo sau xe trâu. Con trâu già chậm chạp kéo chiếc xe. Tiếng bánh xe khô nhớt cứ cót két vang lên, người đàn ông thì lầm lì ít nói. Trời nắng gắt nhưng lạnh vì lúc ấy đã vào tháng ba. Bốn mẹ con bỡ ngỡ rảo chân bước mau theo xe, ba con chạy lúc thúc sát theo mình, ngây ngô chỉ chỏ cảnh vật, hỏi han lăng xăng chừng nào sẽ gặp lại Ba. Như người không hồn, mình im lặng nối gót theo các con, âm thầm thất thểu đi. Vô tư lự, Thủy Tiên, Sơn, Tùng hồn nhiên tung tăng chạy nhảy dọc theo đường mòn thích thú khi gặp các hoa dại tím mọc cạnh dòng suối con, ba đứa hái vài cành hoa buộc lại thành một bó nhỏ, nói với mình là để tặng Ba, làm mình càng xúc cảm, se thắt cả lòng.
Xa xa núi Lam Sơn mờ hiện ra và thấp thoáng kế bên là trại Lý Bá Sơ. Núi rừng tĩnh mịch âm u làm mình chợt rùng mình khi nghĩ đến các anh phải chôn vùi những ngày dài nơi sương lam chướng khí nầy, không biết ngày nào đoàn tụ với vợ con. Mình vội xua đuổi ý nghĩ hắc ám ấy, giựt mình khi nghe Tùng than mỏi chân quá. Mình vội bồng con lên, cố gắng lê bước theo xe trâu. Không hiểu nghĩ sao, người đàn ông lại lên tiếng ngắn ngủi "Chị cho cháu nhỏ ngồi đỡ một đoạn lên xe đi." Tùng mừng rỡ vội nhảy thót lên thùng thiếc ngồi trong lúc Thủy Tiên, Sơn lộ vẻ bất bình, trừng mắt nhìn Tùng. Mình thở dài chép miệng nói nhỏ với hai đứa lớn. "Thôi! Em nó còn nhỏ mà con!"