Hôm nay,  

Việc Thật, Người Thật: Từ Việt Nam Đến Rừng Calais

04/12/200900:00:00(Xem: 5785)

Việc Thật, Người Thật: Từ Việt Nam Đến Rừng Calais

Phương-Vũ Võ Tam-Anh
Cách Paris chừng 200km về phía bắc, thành phố Lens xuất hiện với những ngọn núi than coke, xa xa trông như những Kim Tự Tháp Ai Cập nhưng lại là màu đen u ám. Đó là xứ sở của những mỏ than miền bắc nước Pháp, một vùng mà tỷ số góa phụ lên rất cao, vì đàn ông ở đây quá lam lũ nên phần nhiều chết sớm. Cách đó không xa, trên con đường hướng về thành phố Calais, có nhiều khu rừng rậm rạp ít ai lui tới. Xa hơn chút nữa là một vùng đầm lầy ở Saint Omer, nổi tiếng là một khu du lịch. Vào muà hè, du khách đến để tìm sự tỉnh mịch hoang vu, có thể mướn những chiếc thuyền nhỏ chèo một mình trên những con lạch ngoằn ngoèo hai bên bờ lau sậy để tìm cái thú cô đơn. Nếu đi đông trên một chiếc tàu có người hướng dẫn thì du khách được yêu cầu giữ im lặng để thưởng thức trọn vẹn những tiếng động của đầm lầy, một sự hòa âm kỳ diệu của loài muôn thú hoang dã.
Trong cái khung cảnh đó, tôi đi tìm những người Việt Nam đang bị bỏ quên.
Dưới trời mưa lạnh của miền bắc nước Pháp mà khí hậu thường là ác nghiệt, trong khi vùng Calais đang được báo động đỏ vì bảo lụt, tôi lần mò hồi lâu cũng tới được Angres, một làng nhỏ cách Lens chừng 20 km chung quanh toàn là ruộng và rừng. Dân trong làng cũng biết đâu đó đang có những người Việt Nam đang trốn chui trốn nhủi, nhưng họ tỏ ra rất dè dặc, không phải sợ cho họ mà họ sợ cho chính những người sans papier này. Cuối cùng tôi đánh bạo vào Tòa Thị Xã để hỏi thăm. May mắn thay, tôi được đón tiếp tử tế và hướng dẫn rõ ràng. Tôi gặp một nữ nhân viên tên là Laurence Louchaert, tôi phải viết ra đây để cảm tạ và vinh danh sự sốt sắng và đầy nhiệt tình của một công chức người Pháp. Bà vẻ cho tôi cái sơ đồ để đi đến chỗ người Việt tập trung. Thấy sơ đồ quá ngoằn ngoèo tôi hơi lúng túng, Bà Louchaert hiểu ý bảo tôi: "Thôi đươc, để tôi đưa ông đi ". Tôi chưa kịp vui mừng thì bà nói tiếp: "Ông cho tôi coi đôi giày ". Tôi ngạc nhiên nghỉ bụng chẳng lẽ bà nghi mình là shoe terrorist hay sao mà đòi khám giày"  Hôm nay tôi mang đôi giày đi rừng và đưa cho bà coi, Bà vui vẻ mĩm cười:" Đường vào đó bùn lầy và trơn trợt lắm, nếu ông mang giày khác chắc đi không nổi đâu".
Tôi theo sau xe bà Louchaert khoản mươi cây số thì rẽ vào một con đường đất quanh co. Đến rìa một khu rừng thì bà cho mủi xe chỉa vào rừng rồi bóp ba tiếng còi ra hiệu. Một lát sau một số người hiện ra xa xa trong rừng và khi thấy chiếc xe quen thuộc của bà Louchaert, họ yên tâm tiến về phía chúng tôi. Bà Louchaert giao tôi cho mấy người này để họ dắt tôi vào trong rừng sâu, bà chào chúng tôi và lui xe ra về. Mấy người này cho tôi biết  bà này là ân nhân, đã nuôi ăn họ và giấu họ ở đây.
Lội khoản 200 mét sình lầy trơn trợt, sợ tôi té nên hai cậu thanh niên kẹp tôi hai bên, tôi đến được khu lều của những người Việt Nam đang ẩn trốn. Gọi là lều nhưng thật ra chỉ là những tấm nylon chăng ngang chăng dọc, phần nhiều để làm mái còn  hai bên bỏ trống, và ngay ở giữa lều cũng là bùn lầy vì nước hai bên bắn vào. Ở giữa căn lều lớn là có một tấm ván để làm bàn, một đống lữa đang cháy, có khoản chục người đang bu quanh để sưởi, trong đó có hai người đàn bà. Người nào cũng tỏ ra hết sức dè dặt, rụt rè và thận trọng. Tôi xin phép đươc chụp hình thì mọi người đều đồng thanh là không nên, vì vậy tôi không dám nài nỉ thêm để cho họ yên tâm. Tôi thấy họ như là những con chim bị đạn, sợ tất cả, nghi ngờ tất cả, không biết tin vào đâu, bám vào đâu. Sau khi cắt nghĩa cái lý do tôi tìm đến với họ, họ dần dần yên tâm và kể lể nhiều chuyện với tôi.
"Trại" này được lập ra từ tháng Chín 2009. để nhận những người mới và một số người đã sống trong những trại khác từ nhiều năm nay. Ờ đây chỉ có người Việt Nam thôi, hiện có khoản năm mươi người, con số này lên xuống bất thường, có khi lên đến cả trăm, có khi xuống còn vài người. Ở thời điểm này, "nhập" nhiều vì họ đã ra đi từ mùa hè ấm áp nay mới đến, "xuất " ít vì thời tiết xấu nên những vụ đột kích rời trại cũng rất khó khăn. Những người đến có khi tự tìm đến, có khi do bà Louchaert đem đến, những người đi thì lẵng lặng ra đi, không ai biết đi đâu và đi bằng cách nào. Mỗi đêm thường có chừng năm hoặc mười người đi bộ ra bến xe hàng cách đó chừng ba cây số để tìm cách đi qua Anh. Một số đi thoát, một số bị bắt lại thì bị giam trong những trại tù ( camps de détention) ở Pháp, Hòa Lan hoặc Đức, hoặc bị trả về nước. Gần đây có một phụ nữ Việt Nam bị bắt và giam ở Hòa Lan tám tháng vừa mới được thả. Chưa có người Việt Nam nào bị đưa về nước vì họ nhất quyết liều chết để được ở lại.
Những người này tuy sống chung với nhau trong cùng một hoàn cảnh nhưng cũng xa lạ với nhau và hình như cũng "giữ miếng" với nhau, mặc dù họ đều có chung một tâm trạng là sợ bị bắt và sợ bị đưa về lại Việt Nam. Tất cả đều không biết nói tiếng Pháp, một vài người biết bập bẹ vài tiếng Anh nên nếu có sự giao thiệp với bên ngoài, ngay cả với bà Louchaert  thì cũng rất khó khăn. Một lát sau, gần như họ tin tưởng hơn nơi tôi nên câu chuyện có phần cởi mở hơn nhưng cũng không tránh được sự dè dặt rụt rè. Chỉ có cậu trẻ nhất, 19 tuổi, ít thận trọng và bạo phổi nhất nên cho tôi biết tên là Trần Mạnh Hùng đã đi từ Đồng Hới vào khoảng tháng Ba năm nay. Một phần nửa đã có gia đình để lại bên nhà, tất cả đều đi từ Việt Nam bằng đường bộ từ khoảng đầu năm đến nay. Trước mặt tôi, một "niên trưởng " 47 tuổi ( nhỏ hơn tôi gần 30 tuổi ! ) cho biết là đã đi từ Hòa Bình cách đây năm tháng. Một thanh niên có vẻ lanh lẹ nhất đã đi từ vùng Hà Nội nhưng nhất định không cho tôi biết đích xác là ở đâu. Không có người nào đi từ miền Nam hay phía nam tỉnh Quảng Bình, tức là những người bỏ nước ra đi này đã sống dưới chế độ cộng sản từ xưa đến nay, phần lớn sinh sau năm 1975..


Một đường dây ở Việt Nam buộc những người này phải trả từ 200 đến 300 đô la để đươc chở qua Tàu bằng xe lửa rồi từ đó họ phải tự túc. Họ tiếp tục di chuyển bằng đủ mọi phương tiện, sống bờ sống bụi bằng đủ mọi cách để qua Nga, xuyên qua các nước Đông Âu , Đức rồi cuối cùng đến Pháp mà họ cho là trạm áp chót, vì mục tiêu từ khi còn ở Việt Nam phải là Anh Quốc, thiêng đàng của tỵ nạn theo họ. Vì vậy số phận đã đưa đẩy họ tới vùng sình lầy Calais này, bờ biên giới với nước Anh. Cách đây mấy năm, Pháp phải đóng cửa trạm tiếp đón ở Sangatte ở ngay trên miệng hầm xuyên qua biển Manche, vì nhiều người tỵ nạn bất chấp hiểm nguy đã tìm cách qua Anh bằng đường hầm. Trong cuộc hành trình dài bằng phần nửa vòng trái đất, họ thường bám trên các xe vận tải hạng nặng xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ phải ép xác, có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày. Khám xét những xe vận tải đầy ắp hàng đi từ nước này qua nước khác làm cho cảnh sát biên phòng phải điên đầu vì không phải là chuyện đơn giản lúc nào cũng làm đươc. Năm ngoái, hải quan Pháp đã khám phá được mười mấy xác chết người Á Châu vì ngột ở trong xe hàng, không biết có phải là Việt Nam không. Ngày nay hải quan ở Calais và ở Douvres có một phương pháp khoa học hơn, là đo lượng khí cac-bô-nic (CO2) thải ra để biết trong xe có người hay không.
\Cuộc nói chuyện đi dần tới chỗ thân mật hơn. Một bác đã lớn tuổi cho biết là đã đi từ vùng Nghệ Tỉnh. Tôi buộc miệng pha trò: "Quê hương Bác Hồ". Ông này điềm tỉnh trả lời:"Vâng, tôi sinh ra ở quê hương Bác, nhưng không muốn chết đói ở quê hương Bác." Một người trẻ hơn, đi từ Quảng Bình, cho biết là đã bỏ lại vợ và hai đứa con nhỏ ở lai vì :" Chỉ còn một miếng ruộng nhỏ, cày cấy cho lắm cũng chỉ đủ nuôi một miệng ăn thôi, tôi phải ra đi để bớt đi một miệng". Trong khi đó, mức xuất cảng gạo ở Việt Nam đứng vào hàng nhất nhì thế giới. Tôi liên tương đến truyện "Anh phải sống" của Nhất Linh, vì trong cặp vợ chồng, một người phải chết để cho người kia sống nuôi con. Tôi hỏi anh bạn đi từ Hà Nội: " Nghe nói kinh tế trong những năm sau này phá triển lăm phải không"" Anh trả lời:" Vâng, đúng thế, bây giờ Hà Nội xây nhiều nhà cao tầng, nhiều khách sạn năm sao, nhưng nhà càng cao thì khoản cách giàu nghèo càng lớn." Nhìn hai cô gái, tuy xơ xác nhưng mặt mày còn xinh xắn, tôi đùa:" Sao không ở lại Việt Nam để lấy chồng mà qua đây làm gì cho khổ thế này"" Cô trẻ, 22 tuổi, ngồi im lặng suy tư, còn cô lớn, dộ ba mươi tuổi, có vẻ có trình độ khá, chua chát:" Ở Việt Nam có thể bị bán cho Đại Hàn, cho Đài Loan. Giữa hai cái chết, chúng em lựa cái chết ít nhục nhã hơn." Tôi hối hận vì câu nói thiếu tế nhị của tôi đã gợi trong lòng cô một nổi ray rức vô hạn.
   Những mẫu chuyện xót xa thực sự trên phải ghép lại thành một cuốn phim dài, thật dài, mới nói hết những gì trong tâm tư họ và những gì đã xãy ra ở Việt Nam sau hơn ba mươi năm hòa bình và thống nhất đất nước.
Gặp người Việt Nam họ vừa mừng vừa sợ. Họ sợ nhất là người của Tòa Đại Sứ Việt Nam, đến điiều tra để toa rập đưa họ trở lại Việt Nam. Họ đang cho mình là kẽ thù của nhà nước, có thể bị xử lý. Họ cũng biết thường khi chính phủ Pháp trả về thì cho một ít tiền, không biết có đến tay họ không, hoặc chính phủ Pháp có thể trao đổi họ với chính phủ Việt Nam bằng một số tiền nào đó để bớt đi một gánh nặng xã hội. Vì vậy họ kín đáo, nghi ngờ và hình như có một thứ kỹ luật vô hình nào đó đang đè nặng lên họ.
Mùa đông tới, khắp nước Pháp đang rần rộ bắt đầu những biện pháp cứu trợ. Từ những Resto du Coeur cho đến những Samu Social cứu trợ cấp thời, năm nào cũng đươc chuẩn bị chu đáo nhưng vẫn có nhiều thiếu sót. Lẽ tất nhiên là họ cũng lo tới cho những người Việt Nam này, không phải chỉ vì lòng nhân đạo không thôi mà còn là một nghĩa vụ cao quý của con người đối với con người.Tuy nhiên họ găp một trở ngại là những người này không dám ra khỏi rừng, vì lúc nào cũng nơm nớp sợ mấy "ông kẹ" tòa đại sứ VC đến làm thịt . Chính vị ân nhân, bà Louchaert đã thổ lộ với tôi như vậy bằng điện thoại sau khi tôi thăm viếng. Nếu không có những ân nhân đó đem thực phẩm cứu trợ tới thì những người Việt Nam này đã biến thành những Tarzan thực sự của thế kỹ 21.
    Vì trời tối, tôi phải về vì đường xa, anh em lịch sự đưa tôi ra và chào hỏi rất nhã nhặn. Trên khuôn mặt sáng sủa của mọi người thấy rõ một ý chí cương quyết vì những quyết định của họ là có suy nghỉ  chứ không phải hồ đồ nông nổi. Chỉ có một điều là trong suốt cuộc gặp gở, tôi không hề thấy được một nụ cười.  
Trên đường về, khi nghe radio nói tới hội nghị Việt kiều ở Hà Nội, tôi ray rức bởi câu hỏi là những người Việt Nam đang ở trong rừng Angres này có phải là đối tượng của Nghị Quyết 36 không, hay đối tượng của nó là mấy ông Việt kiều có  lắm đô la " Họ có còn được gọi là " khúc ruột ngàn dặm" không hay chỉ là một khúc ruột thừa phải cắt đi "
Paris, ngày 30 tháng Mười Một 2009
Phương-Vũ Võ Tam-Anh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.