VN: TQ Giết Mekong, Sông Thành Sa Mạc
HANOI (VB) -- Sau khi các bộ trưởng 6 quốc gia thuộc tiểu vùng Sông Mekong đồng ý về kế hoạch mở rộng và củng cố hợp tác kinh tế khu vực, kể cả năng lượng và nhân dụng, một quan chức cao cấp VN nói rằng Trung Quốc đang khai thác Sông Mekong (tức sông Cửu Long) trong một cách gây ra nguy cơ khai tử vùng Đồngbằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) của VN.
Thông tấn Thailand News.net trong bản tin hôm 19-6-2009 đã cho biết hội nghị cấp bộ trưởng 6 nước -- Cam Bốt, Trung Quốc, Lào, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam -- họp tại tỉnh Petchburi, Thái Lan, đã hoàn tất và nói rằng bản tuyên bố chung nói là 6 nước đồng thuận về nhiều kế hoạch phát triển kinh tế chung trong khu vực.
Tuy nhiên, một bản tin trên báo Tuần Việt Nam, nhan đề “TQ khai thác sông Mê Kông và nguy cơ giết chết ĐBSCL” đăng ngày 21-6-2009 cho thấy một bóng tối u ám ẩn hiện phía sau các hợp tác này.
Bản tin nói rằng Việt Nam phải “chuẩn bị sớm” vì các cơ nguy gây ra bởi “những dự án của Trung Quốc trên sông Mê Kông đang làm ảnh hưởng đến các vùng nước ven sông cũng như chính con sông này.”
Bài báo khởi đầu băng một đoạn văn báo nguy, “ĐBSCL của nước ta ở cuối nguồn sông Mê Kông, chịu tác động của tất cả những biến động của thượng nguồn, đồng thời còn chịu tác động từ phía biển do biến đổi khí hậu. Chủ động đối phó với những nguy cơ ấy là việc không thể coi nhẹ và phải chuẩn bị sớm.”
Bài báo nguyên thủy từ báo Người Đô Thị, là một cuộc phỏng vấn GS.TS khoa học Phạm Hồng Giang -- Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN, Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước VN, nguyên phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Kông VN. Điều đặc biệt, đây là lần đầu tiên một viên chức cao cấp Hà nội chính thức lên tiếng, trong khi các lời báo nguy tương tự trứơc giờ chủ yếu chỉ từ hải ngoại, trong đó có tác giả như Ngô Thế Vinh đã in một cuốn sách đúc kết các cuộc nghiên cứu để báo nguy tình hình này.
Đặc biệt, Ông Phạm Hồng Giang, nguyên phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Kông VN, noí rằng ĐBSCL có cơ nguy trở thành sa mạc. Ông nói với báo Người Đô Thị, trích:
“...Chương trình phát triển thủy điện vùng thượng nguồn sông Mê Kông không còn là chuyện mới... Chương trình có 15 đập thủy điện lớn trên dòng chính, đã và đang xây dựng một nửa, trong đó có các đập lớn đã xong như Xiaowan (cao 292m, công suất thủy điện 4.200 MW, dung tích hồ hơn 15 tỉ m3), Nuozhadu (cao 260m, công suất thủy điện 5.500 MW, dung tích hồ gần 23 tỉ m3 )…
Đối với số con đập còn lại, tuy chưa bắt tay xây dựng nhưng cũng đã thiết kế xong. Tổng lượng nước dự trữ trong các hồ nói trên vào khoảng 55 tỉ m3 . Tổng công suất các nhà máy thủy điện vào khoảng 24 GW...
...Điều đáng lo ngại thứ nhất là vì mục tiên tăng lợi ích phát điện trên thượng nguồn mà sẽ có nhiều lúc không giúp điều tiết nguồn nước ở hạ du, trái lại còn có thể làm cho lũ và khô kiệt ở hạ du gay gắt thêm. Nếu các đập ở thượng nguồn xả cùng lúc với lũ tự nhiên thì lũ có tính nhân tạo sẽ cao hơn rất nhiều.
Thứ hai là tác động xấu đến môi trường ở hạ du. Những đập chắn ngang dòng chính tạo ra những biến đổi về lượng phù sa, những tổn thất về đa dạng sinh học, nhất là thủy sản, đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu ngư dân các nước ven sông.
Hơn nữa, nếu nước về hạ du có lẫn cả nước thải công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp khai khoáng(mà tỉnh Vân Nam TQ rất giàu khoáng sản) thì tổn thất ở hạ du không lường được .
Thứ ba là tác động đến dòng chảy. Những gềnh thác bị phá đi mà lưu lượng nước được duy trì thích đáng thì góp phần cải thiện giao thông đường thủy nhưng sẽ làm cho lũ thượng nguồn xả xuống về thượng du nhanh hơn và về mùa khô, nếu ít nước từ thượng nguồn thì sông cạn cũng nhanh hơn.
Thứ tư là nếu nước sông Mê Kông bị chuyển sang lưu vực khác thì chắc chắn tình trạng thiếu nước ở hạ du sẽ rất nghiêm trọng, nhất là về mùa khô...
...Trong toàn bộ lưu vực sông Mê Kông, phần lãnh thổ thuộc TQ chỉ chiếm 18% nên những biến động trên thượng nguồn tác động tới ĐBSCL không trực tiếp như tới Thái Lan và Lào. Tuy nhiên việc một quốc gia ven sông tự ý xây dựng những công trình trên dòng chính, lấy nước của dòng chính tạo ra tiền lệ không tốt cho toàn lưu vực.
Nếu tất cả các quốc gia ven sông đều hành động như vậy thì chẳng những sẽ gây tổn hại chung mà tổn hại riêng cho chính mình. Lào đang cần phát triển thủy điện,Thái Lan muốn lấy nước vào vùng Đông Bắc rồi chuyển nước xuống lưu vực sông Chao Pharaya ở phía Nam, Campuchia dự định tăng vụ và tăng diện tích tưới trong mùa khô. Sông Mê Kông sẽ cạn nước.
Trong tình huống xấu đó, ĐBSCL sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất do ở cuối nguồn. Nguy cơ lớn nhất là thiếu nước trong mùa khô. Lại thêm tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng lên mặn thâm nhập sâu trên toàn vùng đồng bằng. Nếu điền này xảy ra thì ĐBSCL sẽ không còn là vùng đồng bằng trù phú nữa mà trở thành hoang mạc cằn cỗi...”