Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Chào Mừng 2009, Kỷ Niệm Sáu Mươi Năm Quốc Gia Việt Nam:

03/01/200900:00:00(Xem: 5019)
Chào Mừng 2009, Kỷ Niệm Sáu Mươi Năm Quốc Gia Việt Nam:
THỎA ƯỚC HẠ LONG (05-06-1948)
Trần Gia Phụng
1.-BIẾN CHUYỂN CHÍNH TRỊ
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, Pháp nhận ra rằng phía Việt Nam không phải là một khối thống nhất mà chính sách của Việt Minh (VM) tiêu diệt những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, gây chia rẽ trầm trọng giữa những khuynh hướng chính trị Việt Nam.  Vì vậy Pháp tìm một giải pháp chính trị mới để giải quyết chiến tranh Đông Dương.
Tại Nam Kỳ:  Bác sĩ Lê Văn Hoạch từ chức thủ tướng chính phủ "Nam Kỳ tự trị" ngày 29-9-1947.  Hội đồng Nam Kỳ uỷ cho thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân, vừa từ Pháp về, lập chính phủ mới.  Nguyễn Văn Xuân đã từng được Hồ Chí Minh bổ nhiệm làm bộ trưởng không bộ nào (quốc vụ khanh) trong chính phủ ngày 2-9-1945, nhưng ông không nhận chức.  Nguyễn Văn Xuân không lập chính phủ "Nam Kỳ tự trị", mà công bố thành lập Chính phủ Lâm thời Nam Kỳ ngày 8-10-1947 như sau:
Thủ tướng:  Nguyễn Văn Xuân
Phó thủ tướng:  Trần Văn Hữu
Bộ trưởng Tư pháp:  Nguyễn Khắc Vệ
 -Công chánh:  Nguyễn Văn Tỵ
- Canh nông:  Trần Thiện Vàng
-  Thông tin:  Nguyễn Phú Khai
Thứ trưởng Thông tin:  Trần Văn Ân (Chính Đạo, tr. 66)
Tại Pháp:  Chính phủ Paul Ramadier của đảng Xã Hội bị lật đổ ngày 19-11-1947.  Ngày 24-11, quốc hội Pháp bầu Robert Schuman, thuộc đảng M.R.P. (Mouvement Républicain Populaire= Phong trào Cộng hòa Nhân dân) trung hữu và thân De Gaulle, lên lập chính phủ.  Trong nội các nầy, viên bộ trưởng Hải ngoại (tức bộ Thuộc địa cũ) cũng là một nhân vật của M.R.P., ông Paul Coste-Floret.  Với chính phủ mới, mọi người trông đợi một chính sách mới của Pháp về Việt Nam.
Cựu hoàng Bảo Đại gặp Bollaert:  Vào cuối năm 1947, theo lời mời của Cao Uỷ Đông Dương là Émile Bollaert, cựu hoàng Bảo Đại cùng hoàng thân Vĩnh Cẩn (ông Hoàng Tùng Đệ) từ Hồng Kông đến gặp Bollaert ngày 6-12-1947 trên chiến hạm Duguay Trouin, thả neo trong vịnh Bắc Việt.  Hai bên gặp nhau tại đây để tránh tai mắt của báo chí. 
Trong lần gặp mặt sơ khởi nầy, sau hai ngày thảo luận, cựu hoàng Bảo Đại chỉ chấp nhận ký vào bản thông cáo chung, theo đó nước Pháp hứa sẽ công nhận Việt Nam độc lập sau những cuộc thương thuyết chánh thức giữa hai bên.  Sau đây là nội dung thông cáo chung ngày 6-12-1947, được dịch sang tiếng Việt:
 "Một bên là Hoàng đế Bảo Đại, đại diện nước Việt Nam.
Một bên là Cao ủy Bollaert, đại diện Chính phủ Pháp tại Đông  Dương.
Đã thỏa thuận như sau:
Nước Pháp sẽ nhận cho Việt Nam độc lập sau những cuộc thương thuyết chánh thức giữa hai bên.
Việt Nam hứa sẽ ưu tiên dùng những chuyên viên Pháp trong công cuộc kiến thiết.
Một hiệp ước chính thức sẽ được thương thuyết và ký kết giữa các đại  biểu hai nước."
Cao ủy Pháp tại Đông  Dương   Hoàng đế Bảo Đại.
Ký tên : Bollaert, đóng dấu. 
Ký tên : Vĩnh Thụy (1)
Ngoài thông cáo chung, cựu hoàng không chịu ký vào tài liệu thứ hai ấn định lịch trình và những vấn đề sẽ bàn đến, vì ông tự cho rằng lúc đó ông chẳng đại diện cho ai cả và cũng chưa ai uỷ nhiệm ông thực hiện việc nầy.  Tuy nhiên do yêu cầu của Bollaert rằng đây chỉ la bản ghi nhớ nội dung, Bảo Đại chỉ ký tắt mà thôi. (Bảo Đại, tt. 295-297.)
Theo một tài liệu khác, những điểm căn bản trong cuộc thảo luận nầy như sau:  Pháp sẽ công bố rõ ràng rằng sẽ không tiếp tục thương thuyết với Hồ Chí Minh.  Bảo Đại đồng ý đứng ra thành lập một chính phủ độc lập, gồm cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong Liên Hiệp Pháp; Pháp sẽ đặc trách về ngoại giao nhưng sẽ sử dụng viên chức Việt Nam.  Việt Nam sẽ có quân đội riêng, nhưng quân đội nầy sẽ tham gia bảo vệ toàn khối Liên Hiệp Pháp.  Pháp Việt sẽ thiết lập nền thuế quan chung, truyền thông, và vận tải. (Chính Đạo, tr. 70.)
 Khi Bollaert về Paris trình bày giải pháp Bảo Đại, chính phủ Pháp ra tuyên bố ngày 23-12-1947 rằng cao uỷ Bollaert được toàn quyền thương thuyết để tái lập hòa bình ở Đông Dương, và dứt khoát không nói chuyện với Hồ Chí Minh. (Chính Đạo, tt. 71-72) 
Về phía Bảo Đại, cựu hoàng mời ông Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng chính phủ Lâm thời Nam Kỳ, ông Trần Văn Lý, chủ tịch Hội Đồng An Dân Huế, và ông Ngô Đình Diệm cùng nhau hội họp trong ba ngày tại Hồng Kông bắt đầu từ 19-12-1947.  Sau khi lấy ý kiến chung, cựu hoàng Bảo Đại lên đường ngày 24-12-1947 qua Genève thương thuyết. (Bảo Đại, tt. 297-299.)
2.-   CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI VẬN ĐỘNG
Từ Hồng Kông, ngày 24-12-1947, cựu hoàng Bảo Đại đến Genève để gặp cao ủy Bollaert từ ngày 7-1 đến 12-1-1948.  Cựu hoàng đòi hỏi phải chính danh, xác định rõ vị trí của ông thì mới có thể thương thuyết. 
Bollaert cho rằng Bảo Đại không còn là hoàng đế Việt Nam, nhưng Bollaert sẽ mở một hội nghị gồm đại biểu ba kỳ, và hội nghị nầy sẽ trao quyền cho cựu hoàng sứ mạng điều đình với Pháp.  Năm lần họp liên tiếp không đem lại kết quả nào ngoài lời kêu gọi của Bollaert yêu cầu gặp lại cựu hoàng tại vịnh Hạ Long vào giữa tháng 2 sắp đến, nhưng cựu hoàng Bảo Đại không chấp nhận. (Bảo Đại, tt. 299-303.) 
Sau cuộc họp tại Genève, cựu hoàng Bảo Đại đến Cannes, miền nam nước Pháp, thăm gia đình.  Thủ tướng Pháp, ông Schuman mời cưụ hoàng đến Paris ngày 5-2-1948.  Trong buổi tiệc do Schuman khoản đãi, trả lời những thắc mắc của thủ tướng Pháp về thái độ của mình, cựu hoàng Bảo Đại tuyên bố rằng khi ông tới Hạ Long gặp Bollaert lần vừa qua, là để nghe trình bày về chủ trương của nước Pháp, chứ ông không có tư cách đại diện cho ai để ký kết điều gì.  Nhân buổi tiệc đó, cựu hoàng đòi hỏi Pháp phải thừa nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam mới có thể vãn hồi hòa bình. (Chính Đạo, tr. 77.  Bảo Đại, tt. 304-308.)
Về lại Hồng Kông vào giữa tháng 3-1948, cựu hoàng Bảo Đại tiếp tục gặp gỡ thêm nhiều chính khách trong nước.  Vào ngày 26-3, cựu hoàng thông báo cho các đoàn thể chính trị, đồng ý thành lập một chính phủ Trung ương Lâm thời để thảo luận với Pháp một tạm ước và thống nhất đất nước.

Ngày 30-4, cựu hoàng gặp Nguyễn Văn Xuân và gởi thông điệp cho tất cả các tổ chức chính trị ngày 15-5 chấp thuận giao cho ông Xuân lập chính phủ lâm thời.  Nguyễn Văn Xuân là thiếu tướng trong quân đội Pháp, và từng là bộ trưởng không bộ nào (quốc vụ khanh) của chính phủ Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945.                        
3.   CHÍNH PHỦ TRUNG ƯƠNG LÂM THỜI QUỐC GIA VIỆT NAM
Từ 20-5-1948, đại diện các giới cầm quyền Việt Nam tại ba miền trong vùng Pháp kiểm soát, đại diện các đảng phái, các đoàn thể chính trị, tham dự hội nghị từ ngày 20-5-1948 tại Sài Gòn, đã bầu thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng chính phủ trung ương lâm thời.  Ngày 1-6-1948, với sự đồng ý của cựu hoàng Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân chính thức công bố danh sách Hội đồng chính phủ Trung ương Lâm thời, thành phần như sau:
Chủ tịch Hội đồng, kiêm tổng trưởng Quốc phòng  : 
Nguyễn Văn Xuân
Quốc vụ khanh, Phó chủ tịch, tổng trấn Nam Việt:  Trần Văn Hữu
Quốc vụ khanh, tổng trấn Trung Việ:  Phan Văn Giáo
Quốc vụ khanh, tổng trần Bắc Việt:  Nghiêm Xuân Thiện
Quốc vụ khanh, tùng Bộ Quốc phòng:  Trần Quang Vinh
Tổng trưởng Lễ nghi, Quốc gia Giáo dục:  Nguyễn Khoa Toàn
Tổng trưởng Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí (không nhận)
Tổng trưởng Tư pháp:  Nguyễn Khắc Vệ
Tổng trưởng Tài chánh Kinh tế Quốc gia:  Nguyễn Trung Vinh
Tổng trưởng Công chánh và Kế hoạch:  Nguyễn Văn Tỵ
Tổng trưởng Thông tin, Báo chí và Tuyên truyền:   Phan Huy Đán
Tổng trưởng Canh nông:  Trần Thiện Vàng
Thứ trưởng tùng Dinh chủ tịch:   Đinh Xuân Quảng
Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia Giáo dục:   Hà Xuân Tế
Thứ trưởng Nội vụ (bổ nhiệm 9-6):   Đỗ Quang Giai
Thứ trưởng Lao Động (bổ nhiệm 9-6):   Ngô Quốc Còn
Thứ trưởng Nội an (bổ nhiệm 28-6):   Lê Công Bộ (2)
Vì Nguyễn Hữu Trí không nhận bộ Nội vụ nên Nguyễn Văn Xuân kiêm nhiệm.  Sau đó Nguyễn Hữu Trí được cử làm Đại diện Việt Nam tại Paris ngày 25-9-1948.  Các cơ chế hạ tầng của chính phủ Nguyễn Văn Xuân được hoàn thiện dần dần tiếp theo về sau. 
Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân ban hành "Pháp quy lâm thời" (Statut provisoire) của nước Việt Nam, theo đó quốc kỳ nền vàng, ba sọc đỏ ở giữa,(3) quốc ca là bài "Tiếng gọi sinh viên", sau đổi thành "Tiếng gọi thanh niên" của Lưu Hữu Phước, nước Việt Nam được chia thành ba phần Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt; mỗi phần do một tổng trấn đứng đầu.
4.-THỎA ƯỚC HẠ LONG (5-6-1948)
Theo lời đề nghị của cao uỷ Émile Bollaert, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cùng đại diện ba miền là Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí (Bắc Việt), Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng, (Trung Việt), và Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch (Nam Việt) đến vịnh Hạ Long hội họp. 
Dưới sự chứng kiến của cựu hoàng Bảo Đại, hai bên Việt-Pháp ký thỏa ước Hạ Long, dưới hình thức một bản "Tuyên bố chung" ngày 5-6-1948 trên chiến hạm Duguay-Trouin, thả neo trong vịnh Hạ Long, nguyên văn bản dịch như dưới đây:
Trước mặt Hoàng đế Bảo Đại,
Ông Émile Bollaert, Cố vấn Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, nhân danh Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc, một bên,
và:
Ông Nguyễn Văn Xuân, Thủ tướng Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam, có sự dự kiến của quý ông Nghiêm Xuân Thiện và Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn và Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu và Lê Văn Hoạch, đại diện lần lượt cho miền Bắc Việt Nam, miền Trung Việt Nam và miền Nam Việt Nam, một bên, đã lập bản tuyên bố chung như sau:
1.   Nước Pháp long trọng công  nhận nền độc lập của Việt Nam, được tự do thực hiện nền thống nhất của mình.  Về phía Việt Nam, nước Việt Nam tuyên bố sự sáp nhập vào Liên Hiệp Pháp dưới danh nghĩa một quốc gia liên kết với nước Pháp.  Nền độc lập của Việt Nam không có một giới hạn nào khác, ngoài giới hạn, mà Liên Hiệp Pháp dành cho mình.
2.   Nước Việt Nam cam kết tôn trọng mọi quyền hạn và  quyền lợi của các tư nhân Pháp, cam kết bảo đảm các căn bản dân chủ, và dành ưu tiên sử dụng các nhà chuyên môn, cố vấn Pháp trong mọi nhu cầu tổ chức nội bộ và khuếch trương kinh tế của mình.
3.   Sau khi thành lập Chính phủ Lâm thời, các đại diện của Việt Nam sẽ thỏa thuận với các đại diện của Cộng Hòa Pháp quốc, những sự thỏa thuận hợp lý về các vấn đề  ngoại giao,  kinh tế, tài chánh và chuyên môn.
Làm thành hai bản chính ở vịnh Hạ Long, ngày năm tháng sáu năm một nghìn chín trăm bốn mươi tám. (Bảo Đại, tt. 317-318.)
Sau thỏa ước Hạ Long, cựu hoàng Bảo Đại qua Bangkok (Vọng Các, thủ đô Thái Lan) rồi đi Pháp.  Đương nhiên Hồ Chí Minh phản ứng ngay.  Ngày 7-6-1948, tại Thái Nguyên, Hồ Chí Minh tuyên bố phản đối "bọn bù nhìn" ký kết hiệp ước với bất cứ nước ngoài nào.(4)
Ngược lại, việc ký kết thỏa ước Hạ Long đem lại nhiều thuận lợi cho chính phủ Trung ương Lâm thời do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng và cả Pháp nữa, trong đó quan trọng nhất là vụ Lê Văn Viễn về quy thuận.
Lê Văn Viễn, thường được gọi là Bảy Viễn,  một nhân vật lúc trẻ xuất thân từ giới "hảo hán giang hồ" ở Nam Kỳ, đã lên đường kháng chiến chống Pháp năm 1946, chỉ huy chi đội 7 là chi đội Bình Xuyên, đóng ở Rừng Sát.  Lúc đó, VM mời Bảy Viễn về Đồng Tháp Mười phong chức Khu trưởng khu 7.  Bảy Viễn dự đoán có thể đây là một kế hoạch giải tán Bình Xuyên, và bắt giữ ông, nên Bảy Viễn đem lực lượng Bình Xuyên về thành phố, quy thuận chính phủ Trung ương Lâm thời, và được phong làm đại tá tạm thời kể từ ngày 1-8-1948. (Đoàn Thêm, tr. 48.) (Còn tiếp)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-01-2009)
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Khắc Ngữ, Bảo Đại, các đảng phái Quốc gia, và sự thành lập chính quyền Quốc gia, Tủ sách Nghiên cứu Sử Địa, Montréal, 1991, tt. 21-22.
2. Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn: 1965, California: Nxb Xuân Thu tái bản, không đề năm, sđd. tt. 44-45. (Viết tắt: Đoàn Thêm, tr.)
3. Cờ hình chữ nhật, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, nền vàng giống như cờ của Trần Trọng Kim, nhưng thay vì quẻ ly, nay đổi lại ba sọc đỏ bằng nhau chạy dài theo chiều ngang của lá cờ.  Ba sọc nầy tượng trưng cho sự thống nhất ba miền lãnh thổ Bắc, Trung, và Nam phần của đất nước, trên nền vàng tượng trưng căn bản của quốc gia.
4. Hồ Chí Minh toàn tập [tập] 5, 1947-1949, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc Gia, 2000, tr. 907.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.