Hôm nay,  

Nghi Vấn Về Đường Fructose

09/04/201000:00:00(Xem: 21626)

Nghi Vấn Về Đường Fructose

Loại nước ngọt có fructose.


Nguyễn Thượng Chánh, DVM


Từ lâu các nhà dinh dưỡng cũng như Hiệp Hội Tiểu Đường  thường khuyến cáo chúng ta nên sử dụng đường fructose để thay thế đường trắng sucrose và saccharose, nhưng một số nhà khoa học ngày nay đã thay đổi cái nhìn...
Thèm ngọt là một nhu cầu tự nhiên của cơ thể để củng cố năng lượng.
Các nhà khoa học đều nhìn nhận đường là một chất không thể thiếu  được trong một chế độ dinh dưỡng quân bình.
Tuy nhiên một sự thặng dư đường có thể là đầu mối của biết bao nhiêu là bệnh tật như béo phì, tim mạch, và tiểu đường...
Có rất nhiều loại đường trên thị trường với những danh xưng tuy khác nhau nhưng có cùng chung một đặc tính là tạo vị ngọt.
Vậy đường fructose là gì"
 Đây là đường của trái cây.
 Fructose có chỉ số đường huyết (index glycémique hay IG) rất thấp, lối 22 nên làm tăng glucose trong máu lên chậm  so với đường sucrose (đường mía) có IG lối 67.
IG là vận tốc chuyển hóa của một chất bột đường carbohydrate ra  thành glucose để được hấp thụ vào máu. IG càng cao, đường huyết càng tăng nhanh.
Về mặt tạo năng lượng, 1 gram fructose cho ra 3 Calories trong khi 1 gram sucrose tạo ra 4 Calories.
Trong cơ thể, năng lượng dư thừa sẽ được chuyển ra thành mỡ.
- Fructose thiên nhiên trong trái cây chiếm một tỉ lệ không đáng kể. Nếu sử dụng một cách bình thường sẽ không hại gì đến sức khỏe.
Trong rau quả, fructose (và một vài loại đường khác) luôn luôn phối hợp với một số dưỡng chất khác để giúp cho việc hấp thụ được dễ dàng.
Lấy thí dụ, các chất xơ trong trái cây làm chậm lại sự hấp thụ của đường, cũng như sự hiện diện của các bần tố oligoéléments  như chrome, magnesium sẽ giúp vào tác động chuyển hoá của đuờng.
- Fructose tự do là dạng đường được cho thêm vào (added sugar) trong thức ăn thức uống để tạo vị ngọt. Người ta sử dụng đường Fructose cao của sirop bắp ( high fructose corn sirup hay HFCS).
Tại Canada , kỹ nghệ thực phẩm cố tình tránh né danh từ HFCS, và họ thay thế bằng cụm từ Sugar/glucose-fructose trên các nhãn hiệu của sản phẩm (bạn có thể thấy trên phần ingredients của nhãn hiệu : Coca Cola, Pepsi Cola, 7 Up, Chocolate, soda, nutri bar và trong hầu hết các loại thức ăn thức uống ngọt).
HFCS được cho thêm vào sản phẩm để tạo vị ngọt nhưng không có kèm theo những dưỡng chất khác để giúp vào tác động chuyển hóa.
Ảnh hưởng của fructose trên sức khỏe
Một sự tiêu thụ bình thường fructose sẽ không có hại gì nhưng ngược lại, một sự thặng dư hay tiêu thụ quá tải đường fructose dưới dạng sirop bắp hay HFCS sẽ là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh tật như tim mạch, béo phì và tiểu đường type 2.
Thông thường thì chất bột đường carbohydrate tiêu thụ sẽ được chuyển ra thành đường dơn glucose. Vào máu, glucose sẽ kích thích tuyến tụy tạng pancreas tiết hormone insuline giúp đem glucose vào tế bào để tạo năng lượng đồng thời cũng giúp vào việc điều chỉnh đường huyết glycémie ở mức độ thích hợp.
Riêng fructose được chuyển hóa tại gan. Một sư tiêu thụ quá nhiều fructose sẽ làm cho gan không chu toàn được nhiệm vụ tạo năng lượng và thay thế vào đó là sự tạo ra những chất mỡ xấu  triglycerides và được thải vào máu. Đây là yếu tố nguy cơ gây ra bệnh tim mạch.
Cá loại thức uống ngọt như Soda, Coca, Pepsi, 7 Up đều có chứa rất nhiều đường fructose dưới dạng HFCS.
Từ hơn 20 năm nay HFCS đã được kỹ nghệ thực phẩm sử dụng hết sức rộng rãi trong thức ăn thức uống sản xuất theo lối công nghiệp.
Vào cơ thể HFCS sẽ tạo ra các chất reactive carbonyls và làm tổn hại tế bào bêta của tụy tạng (nơi sản xuất insuline) và dẫn tới bệnh tiểu đường type 2.
Các thí nghiệm sơ khởi ở người cho thấy, fructose cũng làm tăng cân, gây béo phì do tác dụng xấu trên liều lượng của hai loại hormones liên hệ đến sư no satiety và sự đói bụng appetite.
Đó là hormone leptin và hormone ghrelin.
Một khảo cứu của Gs Luc Tappy, Lausanne Univ School of Biology & Medicine Thụy Sĩ cho thấy ảnh hưởng chuyển hóa đường fructose có hơi khác biệt tùy theo giới tính.
http://www.reuters.com/article/idUSCOL26917620080602
12 tham số parameters chuyển hóa fructose  (như tăng triglyceride, tăng glucose...) xuất hiện nhanh hơn ở nhóm thanh niên so với nhóm phụ nữ tham dự trong cuộc thí nghiệm.
The 8 men and 8 women did not participate in sports or exercise while following either the "control" diet or the diet that included a lemon-flavored drink containing 3.5 grams of fructose.
"The fructose load used in this study was quite large (corresponding to several liters of sodas per day)," noted Tappy. He and colleagues tested 12 fasting metabolic parameters the day after participants completed each diet, they report in Diabetes Care.
In the men, fructose supplementation caused significant increases in 11 of the 12 factors, including a 5 percent increase in fasting glucose and 71 percent increase in triglyceride levels.
By contrast, women showed a 4 percent increase in glucose and a "markedly blunted," 16 percent increase in triglycerides after the high fructose diet, the investigators said. Overall, the women showed significant increases in only 4 of the 12 factors tested.
Vậy tại sao có sự thặng dư fructose"
Vấn đề thặng dư ở đây là do fructose tự do mà ra. Đó là fructose cao của sirop bắp (HFCS) được cho thêm vào thức ăn hoặc thức uống để tạo vị ngọt.
 Trước những năm 70, Hoa Kỳ sử dụng toàn đường mía và đường củ cải (sucrose- saccharose), nhưng từ những năm 80 chánh phủ Hoa Kỳ cho tăng giá đường lên và đồng thời họ cho tài trợ ngành trồng bắp  trong xứ. Nhờ đó mà giá bắp được giữ thật thấp.
Kỹ nghệ thực phẩm không còn cách nào khác hơn là phải chọn nguồn đường rẻ tiền được sản xuất từ bắp. Đó là lý do xuất hiện đường fructose cao của sirop bắp (HFCS).
 HFCS là một loại đường dễ hòa tan, dễ sử dụng và đồng thời nó cũng có thời hạn dùng (shelf life) dài hơn so với các loại đường khác.
Đường fructose cao của sirop bắp (HFCS) có ích lợi gì"
HFCS có thể được chế biến thành nhiều loại đường có độ ngọt khác nhau bằng cách cho thay đồi tỉ lệ glucose-fructose.
Thông thường, trái cây có chứa một tỉ lệ glucose - fructose bằng nhau 50/50, nhưng hầu như kỹ nghệ nước ép trái cây thường có khuynh hướng cho thêm fructose cao HFCS trong sản phẩm để giúp tăng độ ngọt lên.
Cách sản xuất đường high fructose corn syrup (HFCS)
High-fructose corn syrup is produced by milling corn to corn starch, then further processing the corn starch to yield corn syrup, which is almost pure glucose. Enzymes are then added to change the glucose into fructose. The process is complex and requires numerous enzymatic additions, along with other sugars, in multiple stages to break down the sugar chains and convert them to fructose and glucose. This yields HFCS 90 (90 percent fructose). The other common formulations, noted above, are produced by combining the HFCS with desired proportions of 100 percent glucose corn syrup
1-Enzyme alpha amylase được cho tác động vào tinh bột bắp (corn starch) để cho ra đường oligosaccharide (chuỗi ngắn)
2-Enzyme glucoamylase, sản xuất từ nấm Aspergillus được trộn vào để làm lên men đường và cuối cùng có được đường đơn glucose.
3-Enzyme xylose isomerase (aka glucoseisomerase) chuyển glucose ra thành một hổn hợp gồm có 42% fructose và 50-52% glucose.
Độ ngọt thay đổi tùy theo tỉ lệ glucose-fructose.
Sau đây là những loại đường  HFCS thông dụng nhất:


-HFCS 55: thấy trong các loại nước ngọt. Có độ ngọt tương tợ đường cát sucrose. Chứa 45%glucose và 55% fructose
-HFCS 42 thấy trong các loại bánh ngọt. Ít ngọt hơn đường sucrose.Chứa 58%glucose và 42% fructose
-HFCS 90 ngọt hơn đường sucrose. Chứa 10% glucose và 90% fructose. Thông thường thì HFCS 90  được trộn chung với HFCS 42 để tạo ra HFCS 55 là loại đường thông dụng trong kỹ nghệ nước ngọt.
HFCS thừa thắng xong lên
 HFCS có thể được gọi bằng nhiều thên khác nhau tùy theo quốc gia.
Chẳng hạn như Isoglucose, maize syrup, glucose- fructose syrup (Anh Quốc) và tại Canada là Sugar/Glucose-fructose.
Tại Âu châu HFCS bị chi phối bởi luật hạn ngạch (quota) trong sản xuất. Năm 2005 quota của fructose cao là 303 000 tấn so với 18,6 triệu tấn đường các loại được sản xuất từ 1999 đến 2001. Rõ ràng là Liên hiệp Âu châu không có sử dụng HFCS để thay thế đường trắng trong một phạm vi rộng lớn.
Tại Nhật bản, HFCS chiếm ¼ trong tổng số đường sử dụng.
Hoa kỳ, năm 2008 mỗi người dân tiêu thụ 17.1 kg HFCS/năm so với 21.2kg đường cát sucrose.
Sản phẩm nào có chứa đường fructose cao (HFCS)
Tại Hoa Kỳ và Canada lối 40% thức ăn và thức uống biến chế công nghiệp đều có chứa đường fructose cao high fructose corn syrup (HFCS).
HFCS được thấy trong trong các loại nước ngọt như Coca, Pepsi, Seven Up, soda, iced tea, chocolate,yogurt, bánh mì sandwich, ketchup, tomato soup, cereal, thỏi cớm  ngọt (energy bars, barres tendres, chewy granola bars), trong các loại bánh kẹo, và trong mật ong (honey) được pha HFCS một cách bất hợp pháp  v,v…
Bằng chứng khoa học cho chúng ta biết gì"
- Jean-Yves Dionne,Pharm. Le fructose au banc des accusés
http://www.jydionne.com/le-fructose-au-banc-des-accuses/
• Thí nghiệm ở chuột được cho uống nước có pha HFCS cho thấy có sư gia tăng việc tổng hợp chất lipid, tăng mỡ triglycerides trong máu, gây ra tình trạng đề kháng insuline (insuline resistance) và con vật trở nên mập phì (obesity), đặc biệt là vùng bụng.
• Thí nghiệm ở người : có 2 nhóm
-nhóm I : uống nước có fructose
-nhóm II : uống nước có glucose nhưng không có fructose
Sau 10 tuần thí nghiệm, nhóm I bị béo phì ra, cholesterol xấu LDL tăng cao, tăng triglycerides trong máu, và tăng triglycerides sau bữa ăn.
Nhiều nhà khoa học cho rằng chính HFCS thêm trong thức ăn, nước uống là thủ phạm làm tổn thương gan,gây ra bệnh lý gan hóa mỡ (stéatose) mà có người còn gọi bằng cái tên tiểu đường gan (diabète du foie).                                  
Nhóm I             Nhóm II
 Fructose
 Glucose
Tour de taille, vòng eo bụng
 + 1,9%
 + 1,7%
Gras abdominal, mỡ bụng
 + 8,6%
 + 4,8%
Gras viscéral,lớp mỡ nội tạng
 + 14%
 + 3,2%
Mauvais cholestérol (LDL) cholesterol xấu
 + 14%
 + 3,6%
Triglycérides sanguins, trong máu
 + 18%
 + 2,5%
Triglycérides après les repas, sau bữa ăn
 + 38%
 + 9.8%
-Thí nghiệm của Duke University Medical Center cho biết việc sử dụng HFCS một cách thái quá sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng xơ gan ở những người nằm trong diện non alcoholic fatty liver disease (NAFLD).
 Bệnh lý nầy thường xảy ra ở lối 1/3 người trưởng thành tại Hoa Kỳ.
HFCS linked to liver scarring
http://ondemand.duke.edu/video/21485/high-fructose-corn-syrup-linke
-Princeton University. A sweet problem:Princeton researchers find that high fructose corn syrup (HFCS) prompts considerably more weight gain.
http://www.princeton.edu/main/news/archive/S26/91/22K07/
Kết luận
Vấn đề fructose còn rất nhiều nghi vấn.
Cộng đồng khoa học chưa hoàn toàn thống nhất ý kiến với nhau.
Nên nhớ là các lobby của kỹ nghệ đường cũng nặng kí lắm và có nhiều thế lực.
 Mỗi khi có một nghiên cứu nào nói lên điều bất lợi về một loại đường thì vài năm sau thế nào cũng sẽ xuất hiện ra những khảo cứu phản biện lại.
Xem link dưới đây phản biện lại thí nghiệm của Princeton University:
Marion Nestle. HFCS makes rats fat"
http://www.foodpolitics.com/2010/03/hfcs-makes-rats-fat/
http://www.protegez-vous.ca/sirop-de-mais.html.
Theo người viết thì bất cứ một loại đường nào nếu bị lạm dụng, ăn quá nhiều, quá hảo ngọt cũng đều có hại cho sức khỏe hết.
Đây cũng là ý kiến của một nhà bác học lỗi lạc của Thụy Sĩ vào thế kỷ 15, đó là Bác sĩ Paracelse “ Chính liều lượng làm nên chất độc. « C’est la dose seule qui fait le poison».
Tránh bớt việc ăn quá ngọt, nên đọc kỹ nhãn hiệu. Phần Ingredients : các danh từ tận cùng bằng OSE là đường. Glucose-fructose, corn syrup, honey…đều có chứa fructose.
Tiết chế bớt việc ăn uống, tập thể dục thường xuyên và nên theo đuổi một nếp sống lành mạnh là điều cần thiết đối với tất cả mọi người bất kể nam, phụ, lão, ấu.
“Muốn giữ gìn sức khỏe cho thật tốt, thật không có bí quyết nào cả, ngoài việc có một cuộc sống bình thường và tiết độ” Tâm Pháp Khí Công (2010) trang 143, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, San José, CA.
Thấy thì dễ òm, nhưng thực hiện được hay không còn là một chuyện khác./.
Lucy Crain, MD. The villain in the obesity epidemic: Is high fructose the culprit"
http://www.sfms.org/AM/Template.cfm"Section=Home&CONTENTID=2296&SECTION=Article_Archives&TEMPLATE=/CM/HTMLDisplay.cfm
While there is a provocative temporal association of HFCS with the growing epidemics of obesity and type II diabetes, there are confounding covariables that make it difficult to label this food and drink sweetener as the prime culprit in the epidemics.
Selective elimination of HFCS from anyone’s diet is challenging, as it is contained in almost all U.S.-produced processed or prepared foods and is difficult to avoid if one eats out. Cautious reading of labels of any frozen, baked, or canned goods to prevent consumption of items containing HFCS is encouraged, along with exercise, well-balanced meals, and healthy lifestyles.
Lucy Crain, MD, MPH,FAAP, is a member of the SFMS Board of Directors and a First  Five  San Francisco County Commissioner.
Tham khảo
1.Bergheim I, Weber S, Vos M, et al. Antibiotics protect against fructose-induced hepatic lipid accumulation in mice: role of endotoxin. J Hepatol. 2008 Jun;48(6):983-92.
2. Stanhope KL, Schwarz JM, Keim NL, et al. Consuming fructose-sweetened, not glucose-sweetened, beverages increases viscéral adiposity and lipids and decreases insulin sensitivity in overweight/obese humans. J Clin Invest. 2009 Apr 20. pii: 37385. doi: 10.1172/JCI37385.
3. Stanhope KL, Havel PJ. Endocrine and metabolic effects of consuming beverages sweetened with fructose, glucose, sucrose, or high-fructose corn syrup. Am J Clin Nutr. 2008 Dec;88(6):1733S-1737S.
4. Collison KS, Saleh SM, Bakheet RH, et al. Diabetes of the Liver: The Link Between Nonalcoholic Fatty Liver Disease and HFCS-55. Obesity (Silver Spring). 2009 Mar 12. [Epub ahead of print]
5.Bs Thú y Nguyễn Thượng Chánh. Hảo Ngọt
http://www.vietbao.com/"ppid=45&pid=117&nid=124556
6- Ts Mai Thanh Truyết. Đường thay thế
http://www.yduocngaynay.com/8-8TK_MTTruyet_DuongThayThe.htm
7.Luc Tappy & Kim Anne Lê, Lausanne, Switzerland. Metabolic effects of fructose and the  
Worldwide increase in obesity
http://physrev.physiology.org/cgi/content/short/90/1/23
Montreal, April 08, 2010

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.