Zen 21
Em tội nghiệp ngọn gió đa tình
hằng đêm co gối sáng tác mấy giòng tán tỉnh,
tôi sẽ viết thư tình mực xanh trên lá đỏ mùa thu.
Em vò nát trong tay
thơ không đủ nghĩa cho tim em lảo đảo,
tôi sẽ viết thư tình mực tím trên bao thuốc vụn mùa đông.
Em mỉm cười lạnh nhạt thả hồn theo mây ngàn bắt bóng
không sao … tôi sẽ viết thư tình
mực son trên giấy lụa đào pha nắng hè rừng rực.
Tôi viết cho đến khi nào số phận an bài
vào mùa rợp trời chim én
dắt em đi chào hỏi láng giềng, khoe ầm ĩ:
"người yêu của tôi đến từ hành tinh xa lắc xa lơ"
dĩ nhiên tôi nhận được đuôi mắt sao băng nguýt dài:
"Ai là người yêu của anh hồi nào!"
…
Cứ cho em là người yêu của tôi hồi ấy đi
Hồi ấy … tôi vẽ đường cong mĩ cảm
dấu sau làn vải mỏng hồ ly
Pha sim tim tím tô khóe mắt đưa tình
một thoáng liếc qua đời
Chẳng nề mệt nhọc,
Tôi gò lưng nấu cỏ thơm
gội mái tóc chân dài bên ao sen chiều tối.
Hồi ấy … tôi mơ được em dấu vào đôi mắt ngọc
Rừng ngọc lan thoang thoảng vỗ đêm dài
Nhưng chỉ một bước nữa thôi,
sao em không đến mà quay đi vội vã.
…
Gom hết thư tình đổ vào lò thiêu vũ trụ
Chừa một lá mang theo
thông điệp của ánh chiêu dương
Lá thư tình nô lệ./
Lý Kiến Trúc
Tiếng Vọng Về Nguồn
Trời mưa nước lũ dạt dào
Chảy ven đường phố nước vào cống sâu
Dòng xe sướt mướt dãi dầu
Ngã tư chớp ánh đèn màu đỏ xanh
Vẳng nghe cống rảnh thị thành
Tiếng mưa tìm lại khúc quành bến xưa
Phố buồn, khách lữ nghe chưa
Reo vui tiếng nước lời mưa tuần hoàn.
(Tháng 3 năm 2011)
Đồn Trú Ở Vùng Quê
Những năm thời kháng Pháp
Tôi khoảng tám tuổi thôi
Nghe người lớn kể lại
Mà cũng biết bồi hồi.
Cha kế tôi, công chức
Thời thuộc-địa, hỏa-xa
Nhà gạch khá đường bệ
Gần đồn ở ngã ba.
Đồn Pháp, chốt án ngự
Kiểm soát từng xe đò
Cấm thuốc men chuyên chở
Về Trường-Sơn, tồn kho.
Gần đồn, nên lính Pháp
Đôi lần tạt qua đây
Họ thích hai pho tượng
Trong tủ kính trưng bày.
Tượng hai thi-hào Pháp
Bằng gỗ quý bóng ngời
Rồi một hôm mất trộm
Trong lần họ ghé chơi.
Trung úy, đồn-phó Pháp
Bắt lính trả tượng về
Và tỏ ý cảm kích
Văn-hóa Pháp, vùng quê.
Mừng ảnh-hưởng Pháp-quốc?
Quý người chuộng văn chương?
Khó hiểu trung-úy Pháp
Trấn nhậm thời nhiễu nhương.
Bên Bờ Hậu Giang
Năm một chín sáu tám
Tôi ở quận Trà-Ôn
Có những khinh-tốc-đỉnh
Hải-quân Mỹ trú đồn.
Thấy một thanh niên Mỹ
Thời quân-dịch, đến đây
Trên tay cầm những sách
Thuộc văn-học phương Tây.
Mỗi ngày anh cùng bạn
Lên khinh-tốc, hành quân
Cù-Lao-Dung, Đại-Ngãi
Họ tuần-tiễu lắm lần.
B.40 thổi bật
Người xạ-thủ xuống sông
Anh trở về rớm lệ
Trên bến chiều mênh mông.
Vẫn thường lệ mê sách
Bây giờ anh đọc thơ
Có phải thơ phản-chiến?
Thơ nguyền rủa bãi bờ?
Chỉ biết anh thường ngắm
Dòng sông đêm mịt mùng
Thương người bạn trôi mất
Về phía Cù Lao Dung.
(Hai bài thơ viết tháng 9 năm 2012)
Sao Chổi Một Lần Qua
Năm tôi lên chín tuổi
Ngoại từ xa đến thăm
Một đêm ngoại gọi dậy
Coi sao chổi cuối năm.
Một vệt dài vằng vặc
Kề bốn sao sáng ngời
Nhà thờ trên núi đá
Khắc vào trời chơi vơi.
Tra cứu trong lịch sử
Biết sao chổi tên gì
Xuất hiện năm 48
Niên-ký vẫn tồn ghi.
Trùng thời kỳ nhật-thực
Nên đã mang biệt danh
Là Sao-chổi-Nhật-Thực
Loại triền miên viễn hành.
Nếu là loại quỹ-đạo
Sẽ còn dịp trở về
Nếu là loại vô tận
Đường bay vào mải mê.
Phận người với số kiếp
Một đi bất phục hồi
Ngoại tôi từ ngày mất
Cũng mãi về… xa xôi.
(Tháng 1,2012)
Trần Văn Nam
Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
Em tội nghiệp ngọn gió đa tình
hằng đêm co gối sáng tác mấy giòng tán tỉnh,
tôi sẽ viết thư tình mực xanh trên lá đỏ mùa thu.
Em vò nát trong tay
thơ không đủ nghĩa cho tim em lảo đảo,
tôi sẽ viết thư tình mực tím trên bao thuốc vụn mùa đông.
Em mỉm cười lạnh nhạt thả hồn theo mây ngàn bắt bóng
không sao … tôi sẽ viết thư tình
mực son trên giấy lụa đào pha nắng hè rừng rực.
Tôi viết cho đến khi nào số phận an bài
vào mùa rợp trời chim én
dắt em đi chào hỏi láng giềng, khoe ầm ĩ:
"người yêu của tôi đến từ hành tinh xa lắc xa lơ"
dĩ nhiên tôi nhận được đuôi mắt sao băng nguýt dài:
"Ai là người yêu của anh hồi nào!"
…
Cứ cho em là người yêu của tôi hồi ấy đi
Hồi ấy … tôi vẽ đường cong mĩ cảm
dấu sau làn vải mỏng hồ ly
Pha sim tim tím tô khóe mắt đưa tình
một thoáng liếc qua đời
Chẳng nề mệt nhọc,
Tôi gò lưng nấu cỏ thơm
gội mái tóc chân dài bên ao sen chiều tối.
Hồi ấy … tôi mơ được em dấu vào đôi mắt ngọc
Rừng ngọc lan thoang thoảng vỗ đêm dài
Nhưng chỉ một bước nữa thôi,
sao em không đến mà quay đi vội vã.
…
Gom hết thư tình đổ vào lò thiêu vũ trụ
Chừa một lá mang theo
thông điệp của ánh chiêu dương
Lá thư tình nô lệ./
Lý Kiến Trúc
Tiếng Vọng Về Nguồn
Trời mưa nước lũ dạt dào
Chảy ven đường phố nước vào cống sâu
Dòng xe sướt mướt dãi dầu
Ngã tư chớp ánh đèn màu đỏ xanh
Vẳng nghe cống rảnh thị thành
Tiếng mưa tìm lại khúc quành bến xưa
Phố buồn, khách lữ nghe chưa
Reo vui tiếng nước lời mưa tuần hoàn.
(Tháng 3 năm 2011)
Đồn Trú Ở Vùng Quê
Những năm thời kháng Pháp
Tôi khoảng tám tuổi thôi
Nghe người lớn kể lại
Mà cũng biết bồi hồi.
Cha kế tôi, công chức
Thời thuộc-địa, hỏa-xa
Nhà gạch khá đường bệ
Gần đồn ở ngã ba.
Đồn Pháp, chốt án ngự
Kiểm soát từng xe đò
Cấm thuốc men chuyên chở
Về Trường-Sơn, tồn kho.
Gần đồn, nên lính Pháp
Đôi lần tạt qua đây
Họ thích hai pho tượng
Trong tủ kính trưng bày.
Tượng hai thi-hào Pháp
Bằng gỗ quý bóng ngời
Rồi một hôm mất trộm
Trong lần họ ghé chơi.
Trung úy, đồn-phó Pháp
Bắt lính trả tượng về
Và tỏ ý cảm kích
Văn-hóa Pháp, vùng quê.
Mừng ảnh-hưởng Pháp-quốc?
Quý người chuộng văn chương?
Khó hiểu trung-úy Pháp
Trấn nhậm thời nhiễu nhương.
Bên Bờ Hậu Giang
Năm một chín sáu tám
Tôi ở quận Trà-Ôn
Có những khinh-tốc-đỉnh
Hải-quân Mỹ trú đồn.
Thấy một thanh niên Mỹ
Thời quân-dịch, đến đây
Trên tay cầm những sách
Thuộc văn-học phương Tây.
Mỗi ngày anh cùng bạn
Lên khinh-tốc, hành quân
Cù-Lao-Dung, Đại-Ngãi
Họ tuần-tiễu lắm lần.
B.40 thổi bật
Người xạ-thủ xuống sông
Anh trở về rớm lệ
Trên bến chiều mênh mông.
Vẫn thường lệ mê sách
Bây giờ anh đọc thơ
Có phải thơ phản-chiến?
Thơ nguyền rủa bãi bờ?
Chỉ biết anh thường ngắm
Dòng sông đêm mịt mùng
Thương người bạn trôi mất
Về phía Cù Lao Dung.
(Hai bài thơ viết tháng 9 năm 2012)
Sao Chổi Một Lần Qua
Năm tôi lên chín tuổi
Ngoại từ xa đến thăm
Một đêm ngoại gọi dậy
Coi sao chổi cuối năm.
Một vệt dài vằng vặc
Kề bốn sao sáng ngời
Nhà thờ trên núi đá
Khắc vào trời chơi vơi.
Tra cứu trong lịch sử
Biết sao chổi tên gì
Xuất hiện năm 48
Niên-ký vẫn tồn ghi.
Trùng thời kỳ nhật-thực
Nên đã mang biệt danh
Là Sao-chổi-Nhật-Thực
Loại triền miên viễn hành.
Nếu là loại quỹ-đạo
Sẽ còn dịp trở về
Nếu là loại vô tận
Đường bay vào mải mê.
Phận người với số kiếp
Một đi bất phục hồi
Ngoại tôi từ ngày mất
Cũng mãi về… xa xôi.
(Tháng 1,2012)
Trần Văn Nam
Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
Gửi ý kiến của bạn