Hôm nay,  

Thuốc Thiên Nhiên & Thuốc Tây

28/03/200900:00:00(Xem: 21766)

THUỐC THIÊN NHIÊN & THUỐC TÂY

Ds Nguyễn Ngọc Lan và Bs Thú y Nguyễn Thượng Chánh

Tỏi.

(**Lời tác giả: Bài viết nầy chỉ là những thông tin khoa học tổng quát mà thôi chớ không có tính cách để chữa bệnh. Mọi thắc mắc, nghi vấn liên quan đến thuốc thiên nhiên hay trước khi sử dụng nó xin quý bạn đọc hãy tham khảo trực tiếp với bác sĩ gia đình của mình. NNL-NTC)

Thường tình, ai cũng nghĩ rằng hễ thiên nhiên là vô hại. Các nhà khoa học Tây phương đã cho biết là có một số thuốc thiên nhiên kể cả các loại vitamines, nếu dùng không đúng cách vẫn có thể gây hại cho sức khỏe...

Một vài loại thuốc có thể che lấp một cách tạm thời diễn biến thật sự của bệnh trạng, và làm sai lạc kết quả các tests của phòng thí nghiệm. Chúng cũng có thể làm gia tăng tác dụng của thuốc Tây đến độ gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Đôi khi thuốc thiên nhiên cũng có thể hóa giải, làm giảm hay làm mất tác dụng của một loại thuốc Tây nào đó nếu được dùng chung với nhau.

Tóm lại, tất cả các phản ứng bất lợi vừa nêu trên đều do sự tương tác (interaction) giữa các món thuốc với nhau mà ra thôi.

Chất lượng của thuốc:một vấn đề nan giải

Trước một rừng thuốc thiên nhiên đủ loại, đủ cỡ, người tiêu thụ bị hoa mắt, phân vân và tự hỏi không biết mình nên chọn thuốc nào đây" Thôi thì chỉ còn biết tin vào quảng cáo, hình thức và màu sắc bên ngoài của hộp thuốc để mà quyết định.

 Tại <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />Canada, thuốc thiên nhiên nằm trong vòng kiểm soát của một số nhà bào chế lớn như: Wampole Canada, Swiss Herbal, Quest, Jamieson, Lalco, Adrien Gagnon, Jean Marc Brunet, v.v... Ngoài ra, cũng có một số labo nhỏ chen chân kiếm ăn bên cạnh các nhà bào chế đàn anh.

Santé Canadaước lượng thị trường thuốc thiên nhiên tại Canadaở vào lối 4,3$ tỉ/năm (so với 10,9$ tỉ/năm cho các dược phẩm có brevet).

Thuốc thiên nhiên tại Hoa kỳ 36$ tỉ/năm.

Thuốc thiên nhiên được sản xuất theo lối công nghiệp thì đòi hỏi phải có nguồn cung cấp nguyên liệu thật dồi dào. Một số được sản xuất ngay tại Canada hoặc Hoa Kỳ và phần lớn còn lại được nhập cảng từ Á Châu hay từ Nam Mỹ. Hoạt chất của cây thuốc có thể rất thay đổi, tùy theo thời gian tăng trưởng, nơi trồng, cách trồng, tùy theo phần nào của thực vật được sử dụng và cũng tùy theo cây thuốc được gặt hái lúc nào trong năm.

Tại những phương trời xa xôi vạn dặm thì làm sao kiểm soát một cách chu đáo tất cả quy trình sản xuất nguyên vật liệu để bảo đảm có một chất lượng an toàn và trung thực cho được". Đây cũng là một vấn đề lo nghĩ của những nhà bào chế có lương tâm...

Không phải thiên nhiên là vô hại! Một số thực vật có thể có hại cho sức khỏe như làm hư gan, hại thận hay thậm chí còn có thể gây ra ung thư.

Bởi lẽ nầy nên một số chất sau đây bị cấm tại Canada: Aristolochia (Birthworth, Snake root, Guang Fang Ji), Coca (Erythroxylum coca), Mã tiền Nux vomica (có Strychnine) và Paud'arco (Tabebuia impetiginosa).

Santé Canadathường theo dõi và kiểm soát các loại thuốc thiên nhiên bán trên thị truờng, đặc biệt quan tâm đến các món thuốc nhập cảng từ Á châu. Thỉnh thoảng cơ quan nầy cũng có phát hiện một số thuốc mạo hóa. Tuy mang danh nghĩa là thuốc thiên nhiên nhưng nhà sản xuất lại cố tình pha trộn thêm những loại thuốc Tây (prescription drugs, medicaments d'ordonnance) vào trong đó. Những chất thuốc thường được trộn thêm có thể là những steroides, hormones, các chất thuốc lợi tiểu, các thuốc kháng viêm sưng (anti inflammatoires), các thuốc trợ dương (aphrodisiaques) và thuốc làm giảm đường huyết (hypoglycémiant).

Nhãn hiệu của các thuốc nhập cảng từ Á Châu thường lem nhem không rõ rệt, khó hiểu, không đầy đủ chỉ dẫn cần thiết và cũng không nêu rõ những điều cấm kỵ quan trọng!

Theo sự nhận định của cơ quan Y Tế Canada, thì…sự phối hợp giữa nhiều loại thuốc thiên nhiên với nhau đều được nghi ngờ là có thể dẫn đến những phản ứng bất lợi, làm tổn thương gan và có hại cho sức khỏe. Ngoài ra, còn có vấn đề như những nguyên liệu sử dụng là những nguyên liệu bị giả mạo hay bị biến đổi cũng được kể như là những nhân tố bất lợi…(…a number of factors must be considered when a natural product with multiple ingredients is suspected to be associated with adverse effects. And adulterant or misidentified ingredients could be present in the product that maybe responsible for any adverse effects. Possible toxicity due to excessive dosing or prolonged intake should be considered. Some herbs may contain hepatotoxins and other may contribute to idiosyncratic hepatotoxic reactions and involve an immunological response... Health Canada, Canadian adverse Reaction Newletter, Jan 2003).

http://www.vietnamdaily.com/index.php"c=article&p=47647

http://vietbao.com/"ppid=45&pid=2&nid=136823

Một số thuốc thiên nhiên thông dụng tại hải ngoại

* Valériane (Valeriana officinalis, Valerian, Herbe aux chats, Herbe de st George): Giúp an thần, giảm lo âu bức rức, giảm stress, giảm suy nhược tinh thần, động kinh, giúp tập trung tư tưởng và ngủ ngon...

Không nên sử dụng chung với các loại thuốc ngủ hay thuốc an thần (sédatifs) như barbituriques, benzodiazepines (Valium, Librium, Ativan). Cũng không nên uống chung với các thuốc thiên nhiên có tính an thần như Camomille, Kava và Millepertuis vì tính an thần sẽ bị gia tăng gấp bội, bệnh nhân có thể rơi vào trạng thái mê man. Cùng một lý do vừa nêu, không nên uống Valeriane chung với rượu vì sẽ làm tăng tác dụng của alcool. Không nên uống chung cùng lúc với thuốc trị bệnh mất ngủ vì tác dụng của thuốc nầy sẽ tăng.

* Kava-Kava (Piper methysticum, Tonga, Awa): Trị lo âu, an thần...

Không nên sử dụng chung với các loại thuốc barbituriques, benzodiazepines, thuốc trị suy nhược tinh thần và thuốc trị bệnh Parkinson. Kava có ảnh hưởng không tốt đối với các loại thuốc gây mê, như nó có thể làm gia tăng tác dụng của thuốc mê Halothane, rất nguy hiểm khi giải phẫu. Không nên uống rượu lúc sử dụng thuốc Kava.

* Echinacée (Echinacea sp, Cone flower, Hedgehog, Indian Head): Trị cảm cúm, cảm nhiễm đường hô hấp, tăng cường sức miễn dịch...

Không sử dụng Echinacée nếu đang xài các loại thuốc làm giảm sức miễn dịch (immunosuppresseur) như Cyclosporine sau khi được giải phẫu ghép bộ phận. Kỵ các loại thuốc corticostéroides (Prednisone, Decadron), các steroides anabolisants (Winstrol), Amiodarone (Cordarone), Methotrexate (Rheumatrex) và Ketocomazol (Nizoral). Phụ nữ đang mang thai không nên xài Echinacée. Những người nào đang mắc bệnh lao, hoặc các bệnh thuộc tự miễn (auto immune disease) như viêm khớp rheumathoid arthritis, systemic lupus erythomatosus cũng không nên sử dụng Echinacée. Chỉ nên uống trong vòng từ 7 đến 14 ngày mà thôi, không nên uống liên tục trong 8 tuần lễ.

*Tỏi (Allium sativum, Garlic, Nectar of the Gods, Ail): Trị cảm cúm, tiêu chảy, giúp làm giảm đường lượng trong máu, giảm cholesterol, giảm áp huyết, ngăn ngừa tình trạng xơ cứng động mạch, ngừa các bệnh thuộc về tim, bổ gan và tăng cường sức miễn dịch…

Thuốc tỏi có khuynh hướng làm máu loãng. Không nên xài thuốc tỏi cùng lúc với các thuốc kháng đông (anticoagulant) như Warfarin (Coumadin) hoặc với các thuốc có tính chống kết tụ tiểu cầu (antiplaquettaire) như Aspirine vì có nhiều nguy cơ bị xuất huyết. Đối với các thuốc trị bệnh tiểu đường thường được gọi là thuốc giảm đường lượng (hypoglycémiant), cũng không nên dùng chung với thuốc tỏi để tránh tình trạng đường huyết bị kéo xuống quá thấp.

* Gừng (Gingembre, Ginger): Dùng trong trường hợp muốn nôn mửa, say sóng (motion sickness) và ăn không ngon, mất đói...

Gừng kéo dài thời gian chảy máu. Tránh dùng gừng chung với các loại thuốc làm loãng máu như Aspirine, Coumadin. Lạm dụng gừng có thể ảnh hưởng đến các thuốc trị bệnh tim và thuốc trị tiểu đường.

* Camomille (Tanacetum parthenium, Feverfew, Wild Chamomile): Trị tinh thần căng thẳng, nhức đầu, phong thấp, dị ứng, chóng mặt, đau bụng lúc hành kinh...

Một khảo cứu Nhật Bản đăng trong Journal of Agricultural and Food Chemistry 2008 cho biết uống trà Chamomile rất tốt, vì nó giúp ức chế tác dụng của 2 chất Sorbitol và enzym ALR2. Chính nồng độ cao của 2 chất nầy trong máu đã dự phần trong việc gây biến chứng của bệnh diabetes type II.

Không nên uống Camomille chung với các thuốc kháng đông (anticoagulant) vì sẽ dễ gây xuất huyết. Cũng không nên uống chung với thuốc chống đau nhức làm loãng máu thuộc nhóm anti inflammatoire non stéroidien như Tylénol, Aspirine, Ibuprofene (Advil, Motrin), Celebrex. Phụ nữ đang mang thai tránh dùng Camomille vì có thể làm tử cung co thắt. Không uống chung với thuốc kháng đông Coumadin. Camomille có chứa chất chát tannin có thể ngăn trở việc hấp thụ chất sắt.

* Millepertuis (Hypericum perforatum, St John's Wort, Goatweed, Herbe de St Jean): Trị suy nhược tinh thần nhẹ, lo âu, mệt mỏi, ăn không biết ngon, mất ngủ và đau nhức các bắp cơ, tăng sinh lực, giúp ổn định tâm tánh trong thời gian tiền kinh nguyệt...

Uống chung với các thuốc trị sida, như thuốc Indinavir, sẽ làm giảm tác dụng của loại thuốc diệt siêu vi nầy. Millepertuis cũng ảnh hưởng đến tác dụng của các thuốc trị kinh phong (antiépileptique), thuốc ngừa thai, thuốc làm giảm sức miễn dịch, thuốc chống suy nhược tinh thần (Prozac, Paxil), thuốc chống kết tụ tiểu cầu (antiplatelets), thuốc kháng đông (Coumadin), thuốc ngừa sự loại bỏ bộ phận ghép (Cyclosporine), thuốc chống siêu vi agents antirétroviraux (Invirase), thuốc trị bệnh tim Digoxine (Lanoxin) và Théophylline.

* Bạch quả (Ginkgo biloba, Yinhsing, Fossil tree, Kew tree, Maiden hair tree): Giúp máu lưu thông được dễ dàng, trị viêm phế quản, xơ cứng động mạch, cholesterol cao, bồi dưỡng trí nhớ, giảm triệu chứng bệnh lú lẫn Alzheimer, cải thiện tình trạng chóng mặt, giúp gan và túi mật hoạt động tốt...

Có thể làm xuất huyết nếu xài chung với thuốc kháng đông hoặc thuốc làm máu loãng như Aspirine, vitamin E, Plavix, Persantine và Ticlid. Tạp chí New England Journal of Medicine có đề cập đến một ca xuất huyết trong mắt sau khi bệnh nhân đã thường xuyên uống Ginkgo biloba và Aspirin trong một thời gian dài. Tránh xài Ginkgo biloba lúc mang thai và lúc cho con bú.

* Nha Đam, Lô Hội (Aloe vera): có tính nhuận trường. Dùng trị uống để trị viêm, sốt, tiểu đường, hen suyễn, dị ứng... Dùng thoa ngoài da để trị phỏng, làm lành vết thương. Có khuynh hướng làm giảm chất potassium trong máu (hypokaliémie). Cẩn thận với các thuốc làm hạ potassium chẳng hạn như Digitalis, Lanoxin cùng những thuốc lợi tiểu nhóm Chlorothiazide (Diuril), Furosemide (Lasix)... sẽ làm trầm trọng hơn sụt mất potassium.

* Sâm Cao ly (Panax ginseng): An thần, giảm stress, bồi dưỡng sinh lực, tăng sức miễn dịch, giảm đường máu, giảm cholesterol và trợ dương...

Dùng Ginseng chung với thuốc kháng đông có thể gây xuất huyết. Với thuốc trị suy nhược tinh thần Phenelzine (Nardil) sẽ gây nhức đầu, run rẩy. Với thuốc trị bệnh tim Digoxin (Lanoxin) sẽ làm khó đo lường hiệu quả và tác dụng của món thuốc nầy. Cũng không nên uống Ginseng nếu đang trị liệu bằng các thuốc tâm thần (antipsychotiques) và thuốc trị suy nhược tinh thần hay trầm cảm (antidepresseur). Nếu đang dùng thuốc trị bệnh tiểu đường (Diabeta, Diamicron) thì cũng không nên dùng Ginseng cùng một lúc vì đường lượng có thể bị kéo xuống quá nhanh...Lạm dụng Ginseng sẽ có nguy cơ làm tăng áp huyết, bồn chồn, mất ngủ, bị tiêu chảy hoặc da nổi đỏ.

*Ephedra/Ephedrine (Ephedra sinica, Ma Huang, Sea Grape, Yellow Horse, Desert Herb): Trị suyễn, tăng sinh lực và để giúp làm giảm cân...

Có thể dẫn đến những phản ứng bất lợi như ngạt thở, áp huyết tăng cao gây hại cho tim.

Sử dụng cùng lúc với thuốc thông mũi (décongestants) có chứa chất Ephedrine như Dristan, Sinutab, Sudafed, Actifed hoặc với các thuốc có Caffeine, bệnh nhân sẽ bị co giật, hôn mê và có thể bị đột quỵ tim. Không nên uống Ephedra trong các trường hợp sau đây: lúc mang thai, lúc cho con bú, khi có bệnh tiểu đường, đang bị bệnh tăng nhãn áp (glaucome) hoặc đang bị chứng cường giáp trạng (hyperthyroidisme).

* Sulfate de glucosamine: Trị đau nhức do thoái hóa khớp (arthrose), bảo vệ sụn khớp...

Có người cho rằng Glucosamine có tính làm tăng đường máu" Nếu dùng chung với thuốc Insuline có thể sẽ làm giảm tác dụng của thuốc nầy. Vấn đề trên cũng còn trong vòng tranh cãi giữa các nhà khoa học với nhau. Nên ngưng uống Glucosamine một tuần trước ngày đi thử máu để việc đo đường lượng được chính xác hơn. Không xài Glucosamine đồng thời với thuốc kháng đông Warfarin (Coumadin). Các người nào thường hay bị dị ứng với đồ biển thì không nên uống Glucosamine có hoặc không có phối hợp với Chondroitine vì cả hai chất nầy đều có nguồn gốc từ cá mập.                                                                            

* Dong Quai (Angelica sinensis, Ginseng pour femme): Trị mất ngủ, điều kinh, trị đau bụng và giúp giảm thiểu các triệu chứng bất lợi của thời kỳ mãn kinh...

Không nên dùng Dong Quai lúc đang mang thai, hoặc lúc có kinh nguyệt quá nhiều. Những người đang bị bệnh tiểu đường cần thận trọng vì Dong Quai có thể làm tăng đường huyết.

Với liều lượng cao, Dong Quai làm tăng nhịp tim và làm tăng áp huyết.

 * Camthảo (Réglisse, Glycyrrhiza glabra, Licorice, Sweetwood): Trị bệnh đau dạ dầy, loét bao tử, loét miệng, ho hen, phong thấp, v.v…

Dùng cùng lúc với các thuốc lợi tiểu (diurétiques) có thể làm giảm chất potassium trong máu. Không nên uống cùng một lượt với thuốc trị bệnh tim như Lanoxin hoặc với các thuốc làm hạ áp huyết. Tránh dùng Réglisse khi có thai, lúc bị tiểu đường, yếu gan, yếu thận hoặc đang bị các bệnh chứng về tim mạch hoặc áp huyết cao.

* Saw Palmetto (Serenoa repens, Cabbage Palm, Sabal, Dwarf Palm, Palmier Nain): Có tính lợi tiểu, và được dùng để trị các bệnh thuộc đường tiết niệu...

Saw Palmetto cũng thường được sử dụng để chữa trị truờng hợp tiền liệt tuyến bị triển dưỡng (benign prostatic hypertrophy). Phản ứng phụ của thuốc là có thể làm giảm sự ham muốn tình dục và gây nhức đầu. Nó cũng có thể làm thay đổi tác dụng của các thuốc ngừa thai và của các hormones trị liệu khác. Không nên dùng Saw Palmetto lúc mang thai hoặc trong thời gian cho con bú.

* Hawthorn (Crataegus oxycantha, Aubépine, Mayflower, Maybrush): Trị hồi hộp, tim đập nhanh, lo âu mất ngủ, giảm các cơn đau thắt ngực bằng cách giảm áp huyết động mạch và giảm cholesterol trong máu...

Không nên uống cùng một lúc với các loại thuốc trị bệnh tim như Digoxin (Lanoxin) vì nhịp tim có thể bị giảm nhiều.

* Hà thủ ô (Polygonum multiflorum, Radix Polygoni multiflori, Chineese knotweed, Flowery knotweed, Ho shou wu, He shou wu, Zi shou wu, Shou Wu Pian, Fo ti): Rất phổ biến ở Việt Nam và Bắc Mỹ. Theo Đông y, Hà thủ ô dùng để bồi dưỡng sức khỏe, giữ cho tóc và râu được đen lâu bạc, bổ gan thận huyết, bổ xương, trợ dương…

Theo cơ quan y tế của Anh quốc Medecine&Health Care Products Regulatory Agency cho biết, có nhiều khảo cứu nói đến tác dụng độc hại của Hà thủ ô đối với gan như làm vàng da, vàng mắt, nước tiểu xậm màu, ói mửa, đau bụng, biếng ăn và làm cho yếu sức (Batinelli et al  2004, New case of acute hepatitis following consumption of  Shou Wu Pian, Ann Inter Med140:E589.

Park GJ et al ,Acute hepatitis induced by Shou Wu Pian

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/11206309"ordinalpos=1&itool=EntrezSystem2.PEntrez.Pubmed.Pubmed_ResultsPanel.Pubmed_DiscoveryPanel.Pubmed_Discovery_RA&linkpos=1&log$=relatedarticles&logdbfrom=pubmed.

* Nước bưởi (Jus de pamplemousse, grapefruit juice): Món giải khát bổ dưỡng chứa nhiều sinh tố...

Có thể tương tác với một số thuốc Tây rất nguy hiểm. Không uống nước bưởi cùng lúc với các thuốc trị cao huyết áp, thuốc hạ cholesterol, thuốc trị nấm, thuốc trị đau thắt ngực hoặc điều hòa nhịp tim, các loại thuốc ngừa sự loại bỏ bộ phận ghép, thuốc trị Sida, Viagra...

Health Canadahas issued an advisory to alert Canadians about the risks of consuming grapefruit or its juice by people who are being treated for certain conditions. The reason for the advisory is that grapefruit juice can interact with some medications - either by increasing their levels or decreasing them. The interaction occurs because "substances in grapefruit can interfere with the way your body absorbs and breaks down certain drugs." Higher-than-normal levels of medication can increase the risk of serious or even life-threatening side effects. Less-than-normal medication levels can result in reduced benefit from treatment and, in the case of anti-HIV medications, fewer future treatment options due to drug resistance

http://www.mayoclinic.com/health/food-and-nutrition/AN00413.

* Nấm linh chi (Ganoderma lucidum, reishi, ling zhi, mannontake..): Giúp tăng sức miễn dịch, giảm huyết áp, giảm cholestérol, bổ thận, bổ gan, ngừa cancer, mất ngủ...

Tương tác với các thuốc thiên nhiên có tính kháng đông hoặc làm loãng máu (panax ginseng, bạch quả, capsicum, camomile, celery, cam thảo, gừng, củ hành, tỏi...), có thể làm dễ chảy máu hơn và gây tuột huyết áp. Sử dụng chung với các thuốc Tây có tính gây loãng máu hoặc chống kết tụ tiểu cầu (antiplaquettaire) như Aspirin, Voltaren, Ibuprofen, Advil, Motrin, Naproxen, Heparin, Warfarin (Coumadin), nấm linh chi sẽ làm gia tăng tác dụng kháng đông và làm xuất huyết nhiều hơn. Đối với các thuốc giảm huyết áp như Catopril, Enalapril, Diltiazem, Amilodipine, nấm linh chi sẽ làm huyết áp tuột giảm nhanh hơn.

* Kim Tảo Thảo, Cúc Gai, Milk Thistle (Silibum marianum, Chardon Marie): Dùng để bổ gan, ngừa xơ gan, viêm gan mãn tính, ăn mất ngon, cancer tiền liệt tuyến, tiểu đường, trầm cảm, v.v...

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8225695.

Trên lý thuyết, có thể ức chế enzyme Cytochrome P450 2C9 substrates làm tăng nồng độ các thuốc Amitriptyline (Elavil), Warfarin (Coumadin), Diazepam (Valium)), và cũng làm ức chế enzyme nhóm Cytochrome P450 3A4 substrates làm tăng nồng độ Indavir thuốc trị Sida.

Cúc Gai trên lý thuyết có thể làm hạ đường huyết vì vậy nên cẩn thận nếu đang sử dụng cùng lúc các thuốc trị tiểu đường khiến đường huyết tuột giảm quá nhanh.

Cúc Gai cũng có thể có tác dụng của hormon nữ estrogen vì lẽ nầy nên tránh dùng Cúc Gai nếu các bà các cô đang có những bệnh lý liên hệ với estrogen như cancer vú, cancer buồng trứng, endometriosis, uterine fibroids.

Cúc Gai có thể làm trầm trọng hơn sự hấp thụ sắt trong cơ thể đặc biệt nhất là ở gan trong ca bệnh nhân đang mắc phải bệnh lý di truyền hemochromatosis (thặng dư chất sắt trong gan và trong các bộ phận khác của cơ thể).

http://www.mayoclinic.com/health/silymarin/NS_patient-milkthistle.

* Nghệ (Curcuma longa, turmeric, curcumin, Indian Saffron): Trị ăn khó tiêu, đau bụng, sình hơi, viêm gan, viêm thận, viêm cuống phổi, vêm thấp khớp, cảm lạnh, sốt, mất kinh, nhức đầu, làm lành vết thương, trầm cảm, cancer ruột già...

Hoạt chất của nghệ là curcumin (diferuloymethane), một sắc tố màu vàng có tác kháng viêm, ngăn chặn sự sinh sản tế bào ung thư bằng cách ức chế sự phát triển mạch máu nuôi ung thư (angiogenesis). Nghệ có tính chống kết tụ máu (antithrombotic), chống oxid hóa (antioxidant). Không dùng chung nghệ với các thuốc thiên nhiên có tính làm chảy máu như: dong quai, tỏi, bạch quả, panax ginseng, cam thảo, củ hành, chamomile...). Cũng không sử dụng nghệ nếu đang uống các loại thuốc kháng đông hoặc chống kết tụ tiểu cầu (anticoagulant/antiplatelet) như aspirin, clopidogrel (Plavix), Heparin, ticlopidine (Ticlid), warfarin (Coumadin)...

Nghệ là một gia vị thấy trong bột cà ri.

* Riềng (Alpinia officinarum, catarrh root, Chinaroot, chinese ginger, gao liang, Indiaroot, gargaut). FDA liệt kê riềng trong nhóm Generally recognized as safe (GRAS). Hoạt chất là gingerols và diaryheptanoids. Nghệ dùng như một chất kích thích, sát khuẩn, bụng đầy hơi, chống viêm sưng, chống co thắt (antispasmodic), trị sốt nóng...

Riềng cũng là một gia vị rất phổ thông. Riềng có tính làm tăng sự tiết acid của bao tử nên cần phải tránh sử dụng riềng trong lúc uống các loại thuốc trị bệnh bao tử thuộc ba nhóm sau đây:

 - H2-blockers: cimetidine (Tagamet), ranitidine (Zantac), nizatidine (Axid), famotidine (Pepcid).

- Proton Pump Inhibitors: lansoprazole (Prevacid), esomeprazole (Nexium), pantoprazole (Pantoloc), omeprazole (Losec).

- Antacids: Maalox (hydroxide magnesium, aluminium), Milk of Magnesium, Pepto Bismol, Gaviscon (sodium alginate, aluminum hydroxide).

* Rau Má (Centella asiatica, Hydrocotyle asiatica, Gotu kola...): Tăng trí nhớ, ngừa mệt mỏi, viêm nhiễm đường tiểu, viêm thấp khớp, đau bao tử, kinh phong, giúp vết thương mau lành... Với liều lượng cao có thể làm tăng huyết áp, tăng glucose, tăng triglyceride, tăng cholesterol và làm lừ đừ (drowsiness), gây độc cho gan (hepatotoxicity).

http://scielo.isciii.es/scielo.php"script=sci_arttext&pid=S1130-01082005000200006&nrm=iso&tlng=pt.

Làm tăng tác dụng an thần (sedative) và buồn ngủ nếu dùng chung với thuốc thiên nhiên Capsicum, Siberian ginseng, Celery, Kava, St John's wort, Valerian, Calamus, Calendula.

* Devil's claw (Harpagophytum procumbens, Griffe du diable, Grapple plant): Trị xơ cứng mạch, viêm khớp, thấp khớp, gout, đau cơ, rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, ăn không tiêu, vấn đề kinh kỳ, dùng ngoài da trị các vết thương...

Giảm hiệu nghiệm đối với các thuốc antacid trị bệnh đau bao tử như cimetidine (Tagamet), famotidine (Pepcid), pantoprazole (Pantoloc), esomeprazole (Nexium).

Không dùng chung với Warfarin sẽ gây đỏ da purpura.

* Lộc Nhung (Cervus Nippon, Antler velvet, Bois de velour, Lu Rong, Nokyon, corne servi parvum): Sử dụng để tăng sinh lực, bổ dương, trị cao máu, giảm cholesterol, loãng xụơng, chống lão hóa, bổ xương, ngừa viêm sưng...

Lộc nhung có thể làm ức chế tính dung nạp (tolerance) đối với những liều morphine liên tiếp. Trên lý thuyết, phụ nữ nên tránh xài lộc nhung trong những ca họ đang nhạy cảm với hormon estrogen như trong ca có bệnh sử gia đình về cancer vú và cancer của cổ tử cung.

Kết luận

 ...Thiên nhiên không phải là hoàn toàn vô hại…

+  Collège des Médecins và Ordre des Pharmaciens du Québec khuyên chúng ta không nên sử dụng vitamines với những liều lượng quá lớn, đừng bao giờ mua thuốc thiên nhiên mà nhãn hiệu không rõ rệt, và chỉ sử dụng thuốc thiên nhiên trong thời gian ngắn mà thôi (dưới 3 tháng) vì khoa học chưa biết ảnh hưởng về lâu về dài của món thuốc thiên nhiên đó ra sao.

+ Cẩn thận với các lời quảng cáo chẳng hạn như bảo đảm sẽ chữa khỏi bệnh, hoặc có thể ngừa được bệnh, hoặc họ nói đây là một loại thuốc nhiệm mầu đã được người Trung Hoa sử dụng từ cả ngàn năm nay rồi. Nếu hỏi người bán đó là chất thuốc gì, tên gì, mà họ không chịu nói, hoặc nói ấm a ấm ớ, thì tốt hơn hết là đừng nên mua.

+ Mỗi khi đi khám bệnh, bạn cần phải nói rõ cho bác sĩ biết nếu bạn đang dùng loại thuốc thiên nhiên nào. Tốt hơn hết là bạn nên hỏi ý kiến của bác sĩ và dược sĩ trong trường hợp bạn có ý định xài thuốc ngoại khoa.

+ Lời khuyên của nhà chuyên môn rất ư là cần thiết nếu bạn đang thường xuyên sử dụng các loại thuốc Tây như: thuốc chống đông máu, thuốc làm loãng máu, thuốc làm giảm đường huyết, thuốc trị bệnh tim, lúc đang mang thai, lúc cho con bú, lúc bạn chuẩn bị để được giải phẫu, và cuối cùng nếu bạn lúc nào cũng cảm thấy cần phải…sáng say chiều xỉn hết./.

Tài liệu tham khảo:

- Santé Canada - Cadre réglementaire pour les produits de santé naturels: Aperçu(2004).

- Chevalier, A. Encyclopédie des plantes médicinales. Montréal, Sélection du Reader's Digest, 1997.

-The healing power of vitamins, minerals and herbs-the A-Z guide to enhancing your health and treating illness with nutritional supplement. Montreal, The Reader's Didest Association 1999.

- Collège des Médecins du Québec et Ordre des Pharmaciens du Québec- Attention, Parlez-en avec votre Médecin ou votre Pharmacien.

http://www.opq.org/fr/media/docs/produitsnaturelscorr..pdf.

-Natural Medicines Comprehensive Database - compiled by the Editors of Pharmacist's Letter and Prescriber's Letter, Sixth edition, 2004.

- Michael K. Ang Lee,MD et al. Herbal Medicines and Perioperative Care. JAMA 2001; 286:208-216

http://jama.ama-assn.org/cgi/content/abstract/286/2/208.

-Bs Thu y Nguyễn T Chánh & Ds Nguyễn Ngọc Lan. Bệnh Viêm Gan B-Hy Vọng hay Ảo Vọng

http://www.vantuyen.net/index.php"view=story&subjectid=26077.

- BS Thú y Nguyễn T Chánh. Lang Băm

http://www.vantuyen.net/index.php"view=story&subjectid=25765.

Montreal, March 27, 2009

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.