Hôm nay,  

Giáng Sinh 2013

13/11/201300:00:00(Xem: 5260)
Mừng một biến cố lịch sử xẩy ra trên hai ngàn năm trước, nhưng vẫn như mới xẩy ra hôm nào trong thời đại của chúng ta. Thật vậy, mỗi độ Giáng Sinh về, nhất là ở vùng trời Âu này, khi ta có dịp đi ngang qua một giáo đường, hay chính ngày lễ lớn, có dịp cùng với bạn hữu đi dự lễ Giáng Sinh vào tối 24-12, bạn sẽ được chứng kiến một cảnh ngộ rất thời thượng, một con người được sinh ra không phải ở trong một căn hộ ấm áp có gường, có nệm, có lò sưởi với những tiện nghi, mà là một hài nhì sinh ra trong cảnh nghèo hèn thiếu thốn mọi thứ, còn nơi sinh là hang của chuồng bò, lừa trú lạnh ban đêm ở nơi cánh đồng vắng nước Israel thủa trên hai ngàn năm trước. Vì các phòng trọ không còn chỗ trống. Xin mời bạn theo tôi tìm lại lai lịch biến cố này qua Thánh Sử Luca đoạn I từ câu 18 đến 25.

“Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính thư vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su”.

Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giê-su Hài Nhi.

Chúng ta nên đọc tiếp một đoạn nữa của Luca 2, từ câu 1 đến câu 6.

“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn đắt Ít-ra-en dân ta sẽ ra đời”.

Qua hai đoạn tin mừng chúng ta đã biết được biến cố về lễ Giáng Sinh, một vị Thiên Chúa bởi trời mà xuống trần gian, trong hoàn cảnh gia đình ông Giu-se và bà Maria, một gia đình nghèo, ông thì làm nghề thợ mộc, bà thì lo việc nội trợ trong nhà. Nhân có cuộc làm lại sổ hộ khẩu của nhà Vua Hê-rô-đê thời bấy giờ, mà ông bà ở nơi khác, phải về quê hương của mình để khai sổ hộ khẩu; đường đi thì xa, không có xe cộ như thời bây giờ, phải đi bộ, mà bà thì có mang gần đến ngày sinh, nên ông phải cho bà ngồi trên lưng lừa và dong lừa đi. Về đến quê hương thì chiều đã xuống, các nhà trọ cho mướn để qua đêm đã không còn chỗ, ông bà đành phải ra ngoài cánh đồng vắng tìm đến nơi trú thân của loài vật về đêm để ở tạm. Nào ngờ, giờ sinh đã đến với bà trong hoàn cảnh ở giữa đồng vắng, không đèn, không hàng xóm, không một phương tiện liên lạc như điện thoại, và thời đó cũng không có xe cứu thương như thời nay.

Nhưng khi bà vừa hạ sinh hài nhi thì có tiếng hát của Thiên Thần ca mừng rằng:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”.

Lại có những người chăn giữ đàn vật ở đâu dó cũng đến tụ lại qùy gối bái chào hài nhi và những con vật trú qua đêm ở căn chòi lá cũng bu lại thở hơi ấm làm cho hài nhi bớt lạnh giá trong cảnh đêm đông.

Thiên Chúa từ trời cao khi muốn xuống thế làm người, đã chọn sinh ra trong cảnh ngộ thật nghèo khó. Nghèo khó đến nỗi không còn chỗ trọ, để trú chân qua đêm. Cũng có thể vì Ngài mặc lấy thân phận rất nghèo, cứ trông vẻ bề ngoài một người đàn ông dẫn theo bà vợ có bầu không biết sẽ sinh giờ nào, tìm quan trọ thì chủ quán ai cũng ngại, chưa kể những chủ quán giầu có, họ chỉ muốn cho mướn, cho trọ những người giầu, có tiền. Chính vì cái cảnh nghèo đó mà ông bà bị từ chối, nên đã phải tìm ra ngoài đồng, tìm vào trú chân trong những lán lá người ta che mưa gió cho loài vật trú qua đêm.

Cảnh giầu và nghèo là hai gia cấp muôn thủa thời nào cũng có. Từ thời lễ Giáng Sinh hơn hai ngàn năm trước, và trước nữa, cũng như cho đến ngày nay. Người giầu chẳng có bao nhiêu, tỷ phú nước nào cũng có nhưng chỉ đếm được bằng con số, không nhiều, số trăm thôi. Nhưng thống trị thế giới lại là giới tỷ phú, có tiền, có quyền, nhưng không phải là không có người nhận ra, nhiều người nghèo cũng biết. Do đó họ muốn đem lại công bình cho thế giới, cho mọi người, nhưng gặp thật nhiều trở ngại và khó khăn. Như một Tổng Thống siêu cường quốc muốn cho người dân có bảo hiểm sức khỏe nhưng chưa làm được, và bao đời tổng Thống nước Mỹ đã muốn làm. Giờ đến lượt tổng thống Obama nhưng cũng còn gặp muôn vàn khó khăn và chống đối, không hiểu rồi ông có thực hiện được hay không.

Là người công giáo, mặc nhiên thông cảm nỗi nghèo của người nghèo hơn những người khác. Nhất là mỗi độ Giáng Sinh về, do đó họ dễ dàng cảm nhận thân phận của người nghèo hơn ai hết, nên họ có mặt tích cực ở môi trường xã hội, chính trị trước những người khác dựa vào học thuyết xã hội công giáo:

“Trên thực tế, người ta có thể hành động, hoặc trong cuộc sống cá nhân, gia đình, hoặc trong cách sinh hoạt cộng đồng. Trong lãnh vực tư, nhiệm vụ căn bản là sống và cư xử theo lời dậy Phúc âm, và đừng lùi bước trước những hy sinh và các đau khổ mà nhân đức Ki-tô giáo đòi hỏi. Hơn nữa, tất cả phải yêu mến Giáo hội như là mẹ chung, tuân lời, đề cao danh dự, bảo vệ quyền lợi và lo sao để những người dưới trách niệm của mình biết kính nể và mến yêu Giáo hội trong tình thảo ngay”. Trong lãnh vực công cộng, người công giáo cũng cần phải tham gia vào công việc hành chánh địa phương một cách khôn ngoan, nhất là nỗ lực thúc giục chính quyền cung ứng một nền giáo dục tôn giáo và đạo đức cho giới trẻ, một điều mà Ki-tô hữu rất cần, và cũng là lợi ích sinh tử của xã hội. Một cách chung, người công giáo nên được khuyến khích để nới rộng hoạt động của mình vượt ra ngoài cả những giới hạn còn chật hẹp này để dấn thân vào các phần vụ quan trọng hơn của đất nước. Chúng tôi nói “một cách chung”, vì ở đây chúng tôi muốn nói đến tất cả các nước. Tuy thế, cũng có khi, vì những lý do quan trọng và chính đáng, tham gia vào chính sự và nhận những chức vụ có thể không thích hợp. Nhưng luật chung, như chúng tôi đã nêu trên đây, từ chối dấn thân vào việc nước có thể đáng trách cứ như là chểnh mảng, thờ ơ với công ích, hơn thế nữa, giáo lý mà người công giáo tuyên xưng lại buộc họ khải ngay chính chu toàn bổn phận ấy. Và nếu họ trốn tránh việc nầy, thì giềng mối đất nước sẽ dễ dàng rơi vào tay những kẻ có những ý kiến không mang lại nhiều hy vọng tốt đẹp cho đất nước. Lúc ấy dù Ki-tô hữu có muốn hay không, thì kẻ thù của Giáo hội sẽ có toàn quyền và người bênh vực Giáo hội thì ở bên lề. Do vậy, người công giáo hẳn có lý do chính đáng để dấn thân vào cuộc sống chính trị; vì họ làm và phải làm chính trị, không phải để tán đồng những điều đáng trách cứ đang hiện hữu có trong các cơ chế chính trị, nhưng để hết sức mình khai triển công ích chân thật ngay trong các định chế nầy bằng cách cố đưa vào trong guồng máy chính quyền nền đạo đức và ảnh hưởng của đạo công giáo, như nhựa sống và như dòng máu cứu độ”.(Trích từ Một cái nhìn mới về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo từ tủ sách Muối Đất Định Hướng xuất bản năm 2000 nơi trang 28 và 29).

Là người tin vào Chúa, phục tùng giáo hội của Ngài qua Đức Giáo Hoàng nên tích cực tham gia vào các việc công ích, không thể thờ ơ nghĩ rằng đã có kẻ khác làm, chúng ta không cần tham gia, không cần làm. Thật vậy, nếu việc như ra ứng cử vào các hội đồng thị xã, ứng cử vào tòa nhà lập pháp như quốc hội hạ viện, thượng viện, người công giáo thờ ơ không tham gia, không có mặt thì làm cách nào góp tiếng nói để sản sinh ra những luật lệ, mà luật lệ trong những quốc gia pháp trị được áp dụng để đem lại công bằng cho hết mọi người, nhất là những người nghèo. Nếu những người công nhân làm việc trong các nhà máy, xưởng thợ mà không có công đoàn để bảo vệ những quyền lợi như có đồng lương đủ nuôi sống gia đình, con cái được cắp sách đến trường, có bảo hiểm sức khỏe, căn hộ đủ ấm vào mùa đông thì làm sao người công nhân có đủ tâm trí tập trung vào sản xuất cho ra những sản phẩm cho nhà máy. Cái nghèo của thời trước Giáng Sinh và của ngày hôm nay cũng không khác nhau.

Nhưng mỗi người là một chủ thể, nhân loại càng đông thì càng có nhiều chủ thể. Do vậy, người tham gia vào guồng máy công quyền, nhất là những người trực tiếp làm ra những luật lệ như dân biểu hạ nghị viện, dân biểu thượng viện, cần phải cân nhắc thật kỹ để giảm thiểu đến mức tối đa những cá nhân không tôn trọng những lợi ích chung liên quan đến tập thể như: trộm cắp, phá hoại những phương tiện sản xuất, nhà máy, họ chỉ mưu cầu lợi ích riêng mà không quan tâm đến lợi ích chung của kẻ khác, của cả một tập thể lớn. Người làm luật phải tìm cách giảm thiểu được những cá nhân thiển cận này để công ích được sáng, hầu căn nhà chung của thế giới không còn cảnh bất công và nghèo khó.

Nhờ sự dấn thân của những người mang tầm nhìn của học thuyết xã hội của giáo hội mà một số rất nhỏ quốc gia trên thế giới, khoảng 10 trong 224 nước hiện giờ trên thế giới, có được những luật căn bản về “an sinh xã hội” như một số nước ở vùng Bắc Âu hay như Hòa Lan, Thụy Sĩ; có một tổ chức xã hội thật lý tưởng đúng như giấc mơ của Liên Hiệp Quốc từng mơ ước là: mỗi người có lương thực hành ngày, có nhà ở và được sưởi ấm về mùa đông, con cái được đến trường, mọi người đều có bảo hiểm sức khỏe, các dịch vụ đều bình đẳng khi đến bác sĩ nhà, khi vào bệnh viện, và khi chết được an táng cách bình thường. Được như vậy, là do mọi người không thờ ơ với việc chung, nhất là thờ ơ với những sinh hoạt chính trị.

Nhìn vào máng cỏ, nơi Hài nhi Giê-su được sinh ra, cảnh khó nghèo của trên hai ngàn năm trước không khác là bao với xã hội hôm nay, cảnh giầu nghèo vẫn còn, một phần cũng do chúng ta còn thờ ơ, vẫn lạnh lùng với người bên cạnh và hơn nữa thật thờ ơ khi không chịu góp sức vào những công tác chung của xã hội, chung lòng với người bên cạnh góp công sức để kiến tạo một xã hội công bằng, huynh đệ và yêu thương./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.