Hôm nay,  

Đà Nẵng Và Những Diễn Biến 35 Năm Trước (ii): Tt Thiệu: Kế Hoạch Tối Mật Bảo Vệ Miền Nam

01/04/201000:00:00(Xem: 7854)

Đà Nẵng Và Những Diễn Biến 35 Năm Trước (II): TT Thiệu: Kế Hoạch Tối Mật Bảo Vệ Miền Nam

Nguyễn Tiến Hưng

...Kissinger: Sao VNCH không chết phức đi cho rồi...
Khi chúng tôi hỏi thêm nữa về vụ ‘beachhead’ TT Thiệu giải thích về:
Một kế hoạch tối mật để bảo vệ Miền Nam
Ông nói là vào lúc bị áp lực ký Hiệp định Paris, ông đã tranh đấu thành công để Mỹ không những cam kết trên giấy tờ mà còn thiết kế một kế hoạch phòng thủ Miền Nam trong trường hợp bị tấn công. Kế hoạch này được bảo mật tối đa. Ông chỉ nói sơ qua là điều kiện Hoa Kỳ đặt ra để thi hành kế hoạch này là khi có tổng tấn công, quân đội VNCH phải giữ được ít nhất là hai tuần để Washington có đủ thời giờ sắp xếp. Trong cuốn hồi ký, Đại tướng Viên cũng viết về kế hoạch này (CVV, trang 81).
Để tìm hiểu cho rõ, ngày 10 tháng 10, 1985 chúng tôi đã phỏng vấn chính người có trách nhiệm trực tiếp thi hành kế hoạch này, đó là Tư lệnh Đệ thất Không lực Hoa Kỳ đóng ở Thái Lan, Tướng John W. Vogt. Tổng hợp lại cuộc phỏng vấn và các nguồn khác thì có thể tóm tắt như sau:
•Kế hoạch này lần đầu tiên được nói tới là do Tiến sĩ Henry Kissinger, khi ông họp với TT Thiệu vào ngày 19 tháng 10, 1972 để thuyết phục ông Thiệu ký Hiệp định Paris;
•Sau đó, nó được nhắc lại trong các văn thư do Tổng thống Nixon gửi Tổng thống Thiệu;
•Khi tiếp Phụ Tá Tổng thống Nguyễn Phú Đức tại Tòa Bạch Ốc ngày 29 tháng 11, 1972, TT Nixon cũng nhắc lại việc này. Trong cuốn 'The Vietnam Peace Negotiations – Saigon's Side of the Story,' tiến sĩ Đức thuật lại: 
"Rồi Tổng thống Nixon nói với tôi: Hiệp định này chỉ là một miếng giấy. Điều quan trọng là quyết tâm của chúng tôi yểm trợ các ông. Tôi cam kết với quý ông những điều sau đây:
1. Quân viện và kinh viện cho Miền Nam sau Hiệp định;
2. Không lực Hoa Kỳ trấn đóng tại Thái Lan và trên các chiến hạm sẽ tái oanh tạc trong trường hợp Cộng sản vi phạm hiệp định được tình báo  của chúng tôi phát hiện ra;
3. Chúng tôi nhất quyết ủng hộ TT Thiệu;
4. Hoa Kỳ đã đi tới thông cảm với Liên Xô và Bắc Kinh là họ sẽ giới hạn viện trợ cho Bắc Việt.
Ông Đức hỏi: "Trên căn bản luật pháp nào Ngài có thể tái oanh tạc""
Tổng thống Nixon: "Trên căn bản phải tôn trọng DMZ (vùng phi quân  sự), tôn trọng ngưng chiến, và sự trung lập của Lào và Kampuchia."
Theo như sự sắp xếp thì Ngũ Giác Đài sẽ theo dõi các đơn vị, căn cứ của quân đội Bắc Việt. Bước đầu của kế hoạch là sẽ yểm trợ quân lực VNCH bằng không lực. Có bốn phần của kế hoạch này:
•Lựa chọn và cập nhật những mục tiêu oanh tạc tại Việt Nam;
•Sắp đặt sẵn sàng một ‘Forward Air Control Team’ (Đội Kiểm Không Tiền Vệ) với những nhân viên nói được tiếng Anh và đã làm việc cho Không lực Hoa Kỳ;
•Một điều kiện đặt cho phía VNCH là khi bị tấn công, quân lực VNCH phải cầm cự được từ 7 tới 15 ngày để Washington có đủ thời giờ phản ứng (nhất là làm việc với Quốc Hội, có thể là trên căn bản những mật ước với TT Thiệu- lời tác giả); và
•Thủ tục để VNCH yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp bắt đầu từ Bộ Tổng Tham Mưu VNCH tới TT Thiệu, tới Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, rồi tới Tòa Bạch Ốc.
•Một hệ thống liên lạc nối liền không lực Hoa Kỳ tại căn cứ ở Nakhon Phanom (Thái Lan) với lãnh đạo quân sự Miền Nam. Các tư lệnh quân lực VNCH gồm Tư lệnh Không Quân và Tư lệnh các quân khu có thể trực tiếp liên lạc thẳng với Tướng Vogt. Tướng Vogt cũng được phép của Bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân đi thăm các tướng tư lệnh Vùng của Việt Nam thường xuyên.
Trong cuộc phỏng vấn chính Tướng Vogt đã kể lại là vào mùa hè 1973, mặc dù Đại sứ Martin nói với ông: “Tôi không nghĩ rằng sự hiện diện của một vị tướng 4 sao, người phụ trách chiến dịch không tạc của chiến trường này, có lợi cho việc ổn định tình hình tại đây. Do đó, ông chỉ được trở lại xứ này nếu có lệnh của tôi.” Tướng Vogt vẫn cứ tiếp tục liên lạc, nhưng thay vì vào Miền Nam, ông mời các tướng lãnh sang gặp ông ở Thái Lan. Khi gặp, ông thường trấn an “là Vogt còn ở đây và kế hoạch can thiệp vẫn được điều chỉnh hằng ngày để sẵn sàng đem ra thi hành khi cần đến.” 
Chỉ cần một điều kiện: ‘khi bị tấn công, phải giữ được ít nhất hai tuần’
Một trong những người hay được mời là tướng Trưởng. Ông Trưởng cũng xác nhận với chúng tôi về việc này, và nói ông bay sang Thái Lan thường xuyên để được cập nhật tình hình, “Tướng Vogt luôn nói với tôi là ‘vì việc dùng không lực Hoa kỳ cần phải có Quốc Hội chấp thuận nên phải cần ít nhất là hai tuần để làm việc với Quốc Hội.’” Có nghĩa là khi có tổng tấn công, quân đội VNCH phải giữ được ít nhất là hai tuần.
Sau 1975, khi biết về kế hoạch này tôi mới hiểu tại sao vào cuối năm 1974 - đầu 75, thỉnh thoảng tôi có nghe thấy ông Thiệu nói tới một ‘thời gian hai tuần cần thiết.’ Tại Luân Đôn, ông Thiệu cũng tâm sự: “Lúc tôi ở Mỹ (gặp TT Nixon vào tháng 4, 1973 tại San Clemente, California), họ đã giải thích thêm cho đầy đủ về kế hoạch này.”
Trong một chuyến đi Washington, chính bản thân chúng tôi cũng đã ghé thăm căn cứ của Tư Lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) ở Honolulu do Phụ tá Quốc Phòng Eric von Marbod hướng dẫn. Vào xem phòng tình hình, tôi thấy trang bị hệ thống hết sức tối tân, trên tường có nhiều bản đồ Việt Nam thật lớn, với những bóng đèn xanh, đỏ chớp tắt liên tục. Một nhân viên kiểm báo cắt nghĩa sơ sơ cho tôi về các tuyến phòng thủ mà CINCPAC theo dõi, nhưng vì cá nhân tôi chỉ để ý tới vấn đề viện trợ tổng quát nên không hỏi chi tiết về quân sự.
Xem như vậy, tôi có thể hiểu được là tại sao khi tôi hỏi TT Thiệu về lý do tử thủ Đà Nẵng thì ông đã trả lời là ngoài việc cần thời gian để sắp xếp lại quân đội, ông còn muốn giữ một ‘base’ ít nhất trong hai tuần theo điều kiện Mỹ đã đặt ra, như vậy là để phòng hờ trường hợp Mỹ giữ lời hứa là sẽ tiếp viện. Nhưng cuối cùng thì việc can thiệp là một hy vọng hão huyền và viện trợ cũng bị cắt hết.
Suy tư còn lại của Tổng thống Thiệu
Trong những cuộc đàm đạo với Tổng Thống Thiệu, riêng về vấn đề bỏ Huế và tử thủ Đà Nẵng, ông vẫn còn ưu tư về một vài điều:
Lãnh Sự Mỹ ở Đà Nẵng Albert Francis
Ông Thiệu thắc mắc về vai trò của ông này liên hệ tới việc Tướng Trưởng bỏ Đà Nẵng. Tôi biết rất ít về quân sự và luôn ngần ngại hỏi các tướng lãnh về vấn đề này, nhất là Tướng Trưởng vì ông rất ít tâm sự về việc chinh chiến. Nhưng có lần tôi nói chuyện với ông về việc này: “Tôi thấy ông Tổng thống cứ thắc mắc là tại sao cái anh Francis (đúng ra thì ông Thiệu dùng chữ xưng hô khác) anh ta cứ ôm sát ông Trưởng"” Dường như Trung tướng Trưởng hơi giật mình và hỏi lại tôi hai lần: “Tổng thống hỏi vậy hả"” Rồi ông nói sang chuyện khác. Như vậy, cũng có thể là ông Francis cũng đã nói với Tướng Trưởng về thông tin của tình báo Mỹ là tình hình đã tuyệt vọng chung quanh Đà Nẵng, và đã gợi ý với ông là không nên cố thủ. Đây hoàn toàn là suy nghĩ của cá nhân tôi mà thôi vì tôi thấy nó cũng có thể giống như việc Đại sứ Martin đã nói với TT Thiệu về tình hình nguy hiểm và tuyệt vọng chung quanh Sàigòn vào ngày 21 tháng 4, 1975 khi ông gặp ông Thiệu để cố vấn ông nên từ chức. Ông Francis lại là người tín nhiệm của đại sứ Martin.


Phó Đề đốc Thoại cũng có viết là ông có trông thấy ông Francis đứng ở bên trái phía ngoài trailer của tướng Lân, Tư lệnh TQLC. Khi ông bước vào trailer thì thấy tướng Trưởng đang ngồi hút thuốc lá, nét mặt rất suy tư (HVKT, trang 237). Ngoài ra, khi ông Thoại trở về tới Căn cứ Hải Quân thì "Ông Francis cho tôi biết theo tin tức tình báo thì đơn vị Cộng sản đã bố trí vùng Nam Ô và có lẽ sẽ pháo kích nặng vào Căn cứ Hải Quân vào khoảng 4 giờ sáng. Nhìn đồng hồ tôi thấy tôi còn bảy tới tám giờ đồng hồ để chuẩn bị di tản gia đình binh sĩ và nhân viên chuẩn bị hầm trú ẩn tránh pháo. Sau đó ông Francis xin phương tiện cho ông và hai người cùng tháp tùng ông ra tầu Hải Quân đang ở ngoài khơi” (HVKT, trang 239).
Sau này có lần Tướng Trưởng cũng nói với chúng tôi về một người Mỹ khác: “Khoảng đầu tháng 3 (1975) người phó cho ông Polgar (trạm trưởng CIA) có nói với tôi là: ‘Cộng sản sẽ đánh tới tuyến Phan Rang rồi ngừng 10 ngày.’ Tôi hỏi tại sao anh biết trước thì anh ta xoay sang chuyện khác.”
Khi tôi hỏi về ông Francis thì Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh cảnh sát kiêm Giám đốc Trung ương Tình báo cũng nói: "Chính ông Francis có nói với tôi là ông ta đang ở Hồng Kông cùng với bà vợ để nghỉ ngơi nhưng đã được lệnh về ngay Đà Nẵng và gặp Tướng Trưởng."
Như vậy theo ý kiến riêng của chúng tôi, cũng có thể là ông Francis đã được chỉ thị từ cấp trên là nên cố vấn cho tướng Trưởng bỏ ý định tử thủ Đà nẵng.
Giám mục Phạm Ngọc Chi
Về Đức Cha Phạm Ngọc Chi, Giám mục Đà Nẵng, ông Thiệu cho rằng ngài cũng cố vấn Tướng Trưởng không nên giữ Đà Nẵng. Về lời cố vấn của hai Giám mục Chi và Nguyễn Kim Điền (Huế), ông Thoại cũng ghi:
“Không ai có thể biết được quyết định bỏ ngỏ Đà Nẵng của tướng Trưởng có bị ảnh hưởng bởi hai vị lãnh đạo tôn giáo hay không, nhưng có một điều là khi tướng Trưởng nói chuyện với Tổng thống Thiệu vào đêm 28 tháng 3, cho thấy rõ là ông Thiệu bị bất ngờ vì ông vẫn nghĩ là lực lượng ta đủ sức giữ Đà Nẵng và có thể cũng vì bị bất ngờ nên tổng thống không cho tướng Trưởng một chỉ thị dứt khoát… "(HVKT, trang  288).
[Ông Thoại ghi thêm là Tướng Trưởng có xác nhận với ông là "không" ngày 2/11/2006].
Ông Thoại cũng trích dẫn sách của Trung tướng Lâm Quang Thi (Tư lệnh phó Quân đoàn I) là “Đức cha Chi nhờ Tướng Thi chuyển lời lại cho Tướng Trưởng là ĐC Chi xin Tướng Trưởng bỏ ý định phòng thủ thành phố Đà Nẵng vì làm như vậy, thành phố Đà Nẵng sẽ bị tiêu diệt một cách vô ích và sẽ gây chết chóc cho dân Đà Nẵng cũng như đồng bào tị nạn từ các tỉnh khác về” (HVKT, trang 234).
Nếu không tái phối trí"
Đại tướng Viên nhận xét rằng nếu không có tái phối trí thì Miền Nam đã có nhiều cơ hội hơn, vì “không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội chúng ta không tan rã nhanh như vậy.” Thế nhưng, ông cho rằng “đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn.” Về lâu dài hơn, khả năng VNCH có chịu nổi áp lực hay không là còn tùy vào số quân viện, và ông đi tới kết luận: “Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6, 1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu” (CVV, trang 134). Như sự việc xảy ra, VNCH không những đã không nhận được quân viện phụ trội mà Quốc hội Hoa Kỳ lại còn tiến hành tới việc cắt hết quân viện.
Bởi vậy cuối cùng cũng vẫn là vấn đề hết phương tiện chiến đấu. Và cũng hết cả tiền, một sự việc mà chúng tôi đã ghi trong cuốn KĐMTC là vào năm 1974 thì Chính phủ Sàigòn cũng đã sắp hết ngân khoản để trả lương cho lính, vì từ tài khóa 1975, Quốc hội Hoa Kỳ đã không cho phép được tiếp tục sử dụng tiền từ Quỹ Đối Giá (Counterpart Fund) để tài trợ cho ngân sách quốc phòng và ngân sách cảnh sát nữa. Quỹ này là khoản tiền đồng Việt Nam phát xuất từ tiền bán đồ nhập cảng và từ viện trợ Mỹ, nó là thu nhập quan trọng nhất của ngân sách quốc phòng. Như vậy thì chắc dần dần rồi VNCH cũng phải giải ngũ! (xem KĐMTC, trang 213-215).
Với bối cảnh ấy và khi màn chót của tấn bi kịch đã bắt đầu hạ, vấn đề tử thủ hay không tử thủ, xét cho cùng thì cũng chỉ còn một ý nghĩa hết sức tương đối. Vì khi đã hết đạn và hết tiền thì không thể nào cầm cự được lâu.
Có thể là cả chính phủ Ford cũng muốn kết thúc cho lẹ để Mỹ khỏi bị liên lụy. Nếu Đà Nẵng cứ kéo dài thì Mỹ sẽ có áp lực phải can thiệp. Có lẽ vì vậy nên khi vừa được tin mất Đà Nẵng thì Ngoại trưởng Kissinger đã thở dài mà than vãn: “Sao chúng (VNCH ) không chết phức đi cho rồi.”
Chúng tôi không phải là nhà quân sự, nhưng khi ghi lại những dòng này cũng nghĩ rằng có thể là Tổng thống Thiệu đã chỉ thị đúng về mặt chiến lược vì ba lý do như đề cập trên đây. Mặt khác, Tướng Trưởng đã hành động theo khía cạnh chiến thuật:
•thứ nhất, cán cân quân sự đã lệch hẳn về phía Bắc Việt;
•thứ hai trung ương không còn quân và phương tiện nào để yểm trợ ông nữa;
•thứ ba, đoàn người di tản từ Huế và Quảng Trị trở vào Đà Nẵng đã trở nên hỗn  loạn, tràn ngập thành phố (một thành phố với một nửa triệu dân giờ đây đã  lên gần hai triệu); và
•thứ tư, cũng chẳng thấy mặt Tướng Vogt đâu và ông không hy vọng gì Hoa kỳ sẽ tiếp viện như lúc ông lấy lại Quảng Trị.
Do đó chúng tôi cho rằng Tướng Trưởng đã quyết định không tử thủ Đà Nẵng vì có tử thủ cũng không được lâu mà lại còn phải chịu cái cảnh tàn phá khôn lường.
Điều này thì chính Tổng thống Thiệu cũng đã xác nhận với chúng tôi: “Nếu không có thêm quân viện thì có giữ Đà Nẵng cũng chẳng được bao lâu.” Và sau 1975 thì liên lạc giữa hai người tốt đẹp. Tướng Trưởng có ghé thăm TT Thiệu ở Luân Đôn và TT Thiệu cũng hay nhắc đến Tướng Trưởng. Lúc chúng tôi gặp lại ông Thiệu lần đầu ông còn mua hai cái cà vạt gửi tôi đưa về thăm ông Trưởng (như đã thuật lại trong Chương 1). Sau này trong thư từ ông cũng hay nhắc: "Cho tôi gửi lời thăm T.T.Trưởng và gia đình" (xem thư của Tổng thống Thiệu đề ngày 18/2/1981).
Chúng tôi nghĩ rằng, nếu nhìn theo chiều dài của lịch sử thì có thể là cả hai đều đã có lý do riêng của mình. Và giờ đây, hai vị tư lệnh cao cấp ấy của quân lực VNCH đã gặp nhau ở thế giới bên kia, họ có thể bắt tay nhau cho thật chặt mà không còn phải “mang nặng một niềm đau gậm nhấm tâm can” nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.