Hôm nay,  

Phát Triễn Xã Hội Dân Sự Tại Việt Nam

06/07/201000:00:00(Xem: 8499)

Phát Triễn Xã Hội Dân Sự tại Việt Nam

Jackie Bông - Tháng 5, 2010

Vai Trò Xây Dựng Xã Hội Từ Nhân Dân

Ông Bà chúng ta có câu “Phép vua thua lệ làng.” Lời nói đó cho thấy rỏ sự thành hình và bành trướng của xã hội dân sự (XHDS) có từ muôn thuở tại Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới.  Khi người dân thấy có một nhu cầu cần thiết gì thì chính họ tự tìm phương cách đễ giãi quyết vấn đề và đưa ra cứu cánh đem đến kết quả thực tiễn. 
Những sáng kiến và công tác của người dân đem lại nhuận lợi cho cá nhân họ, gia đình họ, và cho tập thễ trong xã hội mà họ đang chung sống đễ tất cã được chung hưỡng.  Họ hội hợp lại, bàn luận, góp sức lực đễ hợp tác, chia sẽ ý kiến, và thiết kế chương trình theo khuôn khổ pháp định công khai, minh bạch, rồi thực hiện những công tác cần thiết cho đến khi nào họ đạt đến kết quả mong muốn theo mục tiêu và sứ mạng đã vạch ra.
Họ tổ chức một nhóm người cùng có một chí hướng đễ tìm phương tiện thực hiện những chương trình tự họ trù tính với tinh thần tự nguyện, bất vụ lợi của một số người hòan toàn độc lập, tách biệt ra không dính líu gì với các công chức của một chánh quyền nào. 
Nếu họ thành lập một nhóm có khã năng tổ chức quy cữu thì có thễ gọi họ là một hội phi chánh phủ (non-governmental organization - NGO), một hội tư nhân, một hội thiện nguyện hay hội tương tế.  Họ có thễ bành trướng hoạt động của họ trên nhiều phương diện và thành lập những hội đồng hương, hội giáo dục, hội hướng đạo, hay hội đoàn tôn giáo theo khuôn khổ pháp trị.  Họ điều hành qua tinh thần tự nguyện, phần đông được đào tạo và khích lệ bởi các tổ chức tôn giáo hay văn hóa xã hội.
Ông Trần Hữu Quang, trong bài đăng trên Tạp Chí Khoa học xã hội năm 2009, tóm tắt bốn khái niệm XHDS được thay đổi quan điễm về các mối quan hệ giữa các lãnh vực chánh trị, kinh tế và xã hội.  Ông nói là nhà chánh trị người Anh Thomas Hobbes là người đầu tiên sữ dụng thuật ngữ XHDS (societas civilis) đối lập với “tình trạng tự nhiên” trong quyễn De Cive xuất bản năm 1649. [1]
 Vậy thì vào thế kỷ XVI-XVIII, Hobbes, cùng với John Locke và Jean Jacques Rousseau đồng hóa XHDS với nhà nước/quốc gia.  Qua thế kỹ XVIII-XIX, cũng theo Ông Quang, thì Bernard Mandeville, Adam Ferguson và Adam Smith cho quan niệm XHDS là xã hội thị trường.  Sau đó XHDS được coi như là xã hội tư sản với Georg Hegel, Karl Marx, Friedrich Engels và Antonio Gramsci vào thế kỹ XIX-XX.  Qua đến thế kỹ XXI, những chuyển hóa về nội dung ý niệm XHDS phản ảnh những hòan cảnh cụ thể còn tồn tại được đến ngày nay như thế nào" Trong năm 2006, Louis Juste cho là “nó biểu hiện tình hình đấu tranh xã hội diễn ra trong những thời cơ nhứt định.” [2]   
Tóm lại, XHDS cấu thành từ các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện tạo cơ sở đễ tự vận hành, khác vơi các cơ cấu quyền lực của nhà nước và các thể chế thương mại của thị trường.  Có ba mẩu XHDS: 1) cứu tế cho nạn nhân chiến tranh hay tai hoạ gây ra, 2) phát triễn thễ chế xã hội, kinh tế, văn hóa và giáo dục, và 3) bành trướng các sinh hoạt xã hội (social action) tăng quyền lợi cá nhân và phát triễn ý thức hệ trong cộng đồng.  Như thế mọi hoạt động bất vụ lợi cũng cần có phương tiện cụ thể, tiền bạc và cơ sở đễ sinh hoạt.   
Trung tâm XHDS của Trường đại học kinh tế London định nghĩa XHDS như sau:

“XHDS đề cập tới các hoạt động tập thể tự nguyện xung quanh các giá trị, mục tiêu, ý thức chung.  Về lý thuyết, các hình thái tổ chức XHDS khác biệt hẳn với các hình thái tổ chức nhà nước, gia đình và thị trường.  Nhưng trong thực tế thì ranh giới giữa nhà nước, xã hội, gia đình và thị trường là khá lẫn lộn, mập mờ và không rõ ràng.  XHDS thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do và quyền lực.  XHDS thường được hình thành dưới dạng các hội từ thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phong trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư.” [3]

Xã Hội Dân Sự Toàn Cầu
  
Sự phát triễn của thễ chế XHDS trong những quốc gia Âu Châu từ cuối thập niên 1990 đã đem lại sự hình thành của Phong Trào Tân Xã Hội (New Social Movement.) Nó trở thành một khối quản trị thứ ba xây dựng thế lực toàn cầu không ranh giới, có tính cách chánh trị, sinh hoạt tranh đấu về ý thức hệ như chống bạo hành gia đình và công lực, chống đàn áp tôn giáo, chống áp đảo truyền thông báo chí, chống nạn buôn người hay bảo vệ môi trường.  Những phong trào đó tạo thành Xã Hội Chánh Trị làm môi giới giữa nhà nước và dân chúng. [4]
Khái niệm XHDS mới chỉ được phổ biến rộng rãi trong vòng mấy chục năm gần đây vào thế kỷ XX, nhưng vào đầu thế kỹ XXI sinh hoạt đa dạng của XHDS được phổ biến rộng lớn mãi ra trên khắp thế giới. Trường hợp cụ thể của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế đặc trụ sở chính tại Geneve, Thụy Sĩ, được thiết lập trên 150 năm, phối hợp với các chi nhánh của từng quốc gia sở tại.  Rotary Club có chi nhánh làm thiện nguyện khắp Năm Châu cũng ăn mừng 150 tuổi.
Những tổ chức bênh vực nhân quyền như Ân Xá Quốc Tế  (Amnesty International), Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), Bác Sĩ Không Biên Giới (Médecins Sans Frontière), Ký Giả Không Biên Giới (Reporteurs Sans Frontieres), Bảo Vệ Môi Sinh (Green Peace) và Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International) cũng như các tổ chức tôn giáo, y tế xã hội, văn hóa giáo dục, hoạt động trên toàn cầu, thì được quần chúng ưa chuộng hơn cơ quan nhà nước hay cơ sở thương mại. [5]
Như Hội Hướng Đạo có trụ sở chính tại London, Anh quốc, là một phong trào hướng dẫn sinh hoạt lành mạnh cho giới thanh thiếu niên khắp thế giới.  Như tại Ấn Đô có từ 1 đên 2 triệu tổ chức lớn và nhỏ hoạt động từ thiện, còn ở bên Nga Sô thì cũng có đến 277,000 XHDS, phần đông do nhà cầm quyền Nga Sô thống trị.
Ngòai ra, vai trò trong giới đại học (academia) và các cơ quan chuyên nghiệp về kỹ thuật, khoa học, giáo dục, y tế, đóng góp sáng kiến thực tiễn ảnh hưỡng trong giới trí thức cũng như ảnh hưỡng quần chúng sâu rộng.  Tuy hhiên, không cần phải là một tổ chức quy mô với tài chánh dồi dào mới có thễ hoạt động được.  Những tổ chức nhỏ với ngân sách eo hẹp cũng hoạt động khá hiệu quã với tầm vóc quan trọng.
Riêng tại Hoa Kỳ, thống kê cho thấy Foundation Center gồm 11 cơ quan tài trợ cho 1 triệu tổ chức vô vị lợi và trên 3 triệu nhóm nhỏ hoạt động tự nguyện đễ phục vụ công ích. Các tổ chức nầy có hơn 60% phát xuất từ các tôn giáo phãn ãnh tinh thần phục vụ hy sinh rất cao về số nhân viên thiện nguyện làm việc cho các tổ chức nầy. Tuy vậy, có những nhân viên các tổ chức XHDS được trã lương cao với quyền lợi đãi ngộ được bảo đảm không thua các công chức nhà nước hay công ti xí nghiệp. 
 Như Hội AARP, với 6 triệu thành viên người hưu trí (American Association of Retired Persons) có ngân sách $640 triệu và thuê cã ngàn nhân viên làm việc trong những văn phòng toàn quốc ở Hoa Kỳ.  Họ cũng trã tiền cho nhiều nhân viên đi vận động (lobby) trên quốc hội đễ bênh vực quyền lợi cho người từ 50 tuổi trở lên. [6]
 Thống kê cũng cho biết người Mỹ đã chi ra 250 tỹ mỹ kim cho lãnh vực từ thiện và có tất cã 1.8 triệu tổ chức đã được chấp nhận được miễn phí trong năm 2007.  Mổi năm có từ 75,000 đến 100,000 tổ chức XHDS nợp đơn đăng ký tại Hoa Kỳ.[7]
Nhu cầu đa diện của môt quốc gia chứng nhận là chánh quyền không thễ nào tự giãi quyết nổi nhiều vấn đề về chánh trị, kinh tế hay xã hội.  Vì vậy, tổ chức XHDS bổ sung chớ không nhầm thay thế guồng mái nhà nước.  Họ chỉ lấy công của dân làm căn bản giúp cho chánh quyền.  Theo LS Đòan Thanh Liêm, những tổ chức XHDS đóng hai vai trò: vừa là đối tác (counterpart), vừa là đối trọng (counterbalance). [8]
Cụ thễ như các hội Hồng Thập Tự luôn hợp tác với nhà nước đễ lo sóc cho các nạn nhân thiên tai, bão lụt.  Còn các hội phụ huynh học sinh, chẵng hạng thì hổ trợ nhà trường giúp mỡ mang trí tuệ và sức khõe cho các con em.  Vì thế mà các cơ quan thiện nguyện còn được chánh quyền tài trợ hay cấp nhiều phương tiện khác cho họ thực hiện nhiều chương trình công ích.
Còn các hội tôn giáo (faith-based initiatives) hay nhân quyền thì đóng vai trò đối tượng đễ bênh vực cho những nạn nhân chống bất công, tham nhũng, lạm dụng mà nhân viên chánh quyền gây ra. Giới truyền thông báo chí, các đại học và những người có lý tưỡng như giới trẽ và sinh viên dám cang đãm đứng lên đễ thức tĩnh, cãnh giác, phê phán sai trái các nhân viên chánh quyền hay cơ quan doanh nghiệp tư nhân gây ra. 
Nhờ có “kiễm soát đễ giữ sự quân bình” (checks &  balance) của người dân cho nên bớt được một phần nào sự nhũng lạm và thiệt thoài của công dân trong xã hội. Đó là một nhu cầu chính đáng của người dân dự định, do người dân thực hiện, và cho người dân hưỡng thụ.
Những sự kiện giãm những khống chế, lạm quyền, thối nát đem lại những thay đổi trong xã hội như tôn trọng quyền tối thiểu của công dân sống trong một quốc gia theo thễ chế pháp trị.  Từ đó những định hướng tự do cỡi mỡ, bảo trọng quyền lợi cho công dân đạt đến nhân quyền và dân chủ từ lần từ hồi được phát họa. Những phong trào chống nô lệ, bênh vực quyền lợi phu nữ và người da màu cho họ được quyền bỏ phiếu được đề cao và gia tăng. 
Sau thế chiến thứ nhất , Liên Hiệp Quốc được thành lập đễ bàn luận về Sự Giãm Quân Bị trên thế giới (World Disarmement).  Năm 1950, LHQ mời 1,000 NGO đến tham dự và biểu quyết chấp nhận làm việc chung.  Họ coi các hiệp hôi tư nhân như là một khối tổ chức quốc tế “International NGO” phu giúp họ thực hiện những chương trình trong các quốc gia trên thế giới.  Vì thế mà các NGO càng nhận được nhiều nguồn tài trợ từ cá nhân, từ quỹ tài trợ các foundations, từ tổ chức tư nhân và thương mại, từ chánh phủ và từ các tổ chức quốc tế. [9]
Năm 1970, các quốc gia giàu cam kết trích ra 0.7% GNI (lợi tức quốc gia - growth national income) tặng cho NGO thực hiện chương trình của họ cho các quốc gia đang mỡ mang.  Viện Đại học John Hopskins nghiên cứu trong các năm 2000-2002 đưa ra tổng số $1,300 trĩ mỹ kim (trillion) do 35 quốc gia chi phí cho 40,000 ngàn nhân viên quốc tế làm việc trong khu vực XHDS nầy. 
Như thế thì XHDS có thễ xếp vào hàng thứ 7 trong các nền kinh tế lớn nhất của thế giới ngày nay.  Có thễ coi XHDS là một khối thế lực thứ ba (Third Force) trên thế giới và trong guồng mái của nhiều quốc gia từ Đông Tây đến Âu Á. Quan hệ quốc tế và quốc gia được khai thông trở thành quan hệ “mỡ” (open society) trong nhiều lãnh vực khai thông hai chiều trên nhiều lãnh vực không biễn cưỡng tuy các nếp sống cổ truyền vẩn được duy trì. Vì thế, nhiề u dân tộc đa dạng, khác biệt về ngôn ngữ và truyền thống  cũng sống chung với nhau và chia sẽ những giá trị và nếp sống chung trong một xã h ội
cỡi mỡ không biên giới như ngày hôm nay. [10] 
Trong năm 2007, World Bank trích ra một tỹ mỹ kim tài trợ cho những chương trình cộng đồng.  Carnegie Endowment for International Peace cho $20 tỹ trong năm 2007, còn Bill và Melinda Gates tặng $38 triệu cộng với $30 triệu của Ông Warren Buffet đễ chích ngừa cho 200 triệu trẽ em cũng như tài trợ cho nhiều chương trình giáo dục và xã hội khác.  Vậy thế kỹ XXI là thế kỹ của bất vụ lợi (the Century of Non-Profit).
Các nguyên nhân nào đem đến sự đột phá của xã hội mới mẽ nầy (The New Social Movement)"  Trưóc hết là vấn đề tài nguyên.  Các chánh phũ ở Tây Âu kễ cã Mỹ không ngân sách đễ trang trãi mọi dịch vụ cho người dân, đặc biệt trong những năm 1970, giá dầu hỏa từ Trung Đông tăng quá cao làm lợi tức thu nhập quốc gia giảm nhiều.  Do vậy, các cơ quan tư nhân gi úp đảm trách vai trò mà nhà nước không thễ phụ trách trên phương diện giáo dục, văn hóa và xã hội.
Hai nữa, quần chúng ở các nước Âu Mỹ kết hợp thành phong trào chống chiến tranh hạt nhân, chống phá hoại môi sinh, chống đàn áp nhân quyền.  Nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lãnh vực truyền thông nên sự liên đới quốc tế được kết hợp với tính cách toàn cầu và được phổ biến mau lẹ và liên tục. 
Ba nữa là trong thời kỳ Cộng sản tại Liên Sô và các nước Đông Âu bị suy thoái, và sau bức tường Bá Linh xụp đổ năm 1989, công cuộc phục hồi XHDS được tiến hành mau lẹ dành cho  gười dân cái quyền tự mình làm chủ vận mệnh.  Quá trình chuyễn tiếp dân chủ (Democratic transition) nầy đang diễn ra tại tất cã các quốc gia cựu Cộng sản trừ Cuba, Bắc Đại Hàng, Trung Quốc và Việt nam. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rỏ sự thay đổi là một quá trình mà không thế nào đảo ngược lại được nữa (irreversible process).      
Chót nữa thì tổ chức XHDS còn thu hút nhiều tài năng trí tuệ xuất sắc, cho nên hoạt động của họ có năng xuất và hiệu quã rất cao.  Do đầu óc sáng tạo, l òng nhiệt tâm, sự hy sinh cho lý tưỡng, phương thức ôn hòa bất bạo động, và hành động thiết thực nên những nhân viên phục vụ cho dân chúng gặt hái thành qủa tốt đẹp.
Hơn nữa, năn độ đa năng và đa nguyên của XHDS ở Hoa Kỳ và các nước mỡ mang còn ảnh hướng chính sách đối nội và đối ngoại, phát huy đời sống toàn diện của người dân từ kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo. Nó cũng bảo trọng nền dân chủ hữu hiệu từ hạ tần cơ sỡ như làng, xã, quận đến tĩnh và thành thị lên đến thượng tần cơ sỡ của chánh quyền như các nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp.  Đó là hiện tượng thay đổi từ dưới lên trên, từ lòng dân lên đến chánh quyền, khác với những quốc gia có truyền thống chuyên chế, độc tài kiễm soát quyền hành từ trên xuống dưới.
Sự ảnh hưỡng của XHDS rất quan trọng đến chánh quyền. Nhân dịp viếng thăm Trung Quốc cuối tháng Năm năm 2010, Ngoại Trưỡng Hoa Kỳ Hillary Clinton gặp các  phụ nữ XHDS (Chinese Women Civil Society) tại Beijing. Họ chia sẽ những vấn đề khó xữ như tham những, bạo hành gia đình, đàn áp, hãm hiếp, quyền phụ nữ và nhân quyền.  Kết luận tất cả đồng ý là cần có sư đồng tâm và ưng thuận của các đâng nam nhi và chánh quyền mới giải quyết và thay đổi được những tình trạng nêu trên. [11]          

 Xã Hội Dân Sự tại Việt Nam

Sau khi thống nhứt đất nước thành một quốc gia không còn chia đôi trong năm1975, Việt Nam đã trãi qua nhiều thời kỳ thữ thách, từ trừng phạt bỏ tù cã trăm ngàn người miền nam cùng máu mủ, còn trừng phạt gây chiến với Cam Bốt, rồi đến trừng phạt đánh trận với đàn anh Trung Cộng.  Việt Nam trở thành một nước nghèo đứng hạng thứ tư trên thế giới với lợi tức đầu người $200 một năm cho đến thập niên 1990. 
Nhờ noi gương đổi mới của hai đàn anh Nga Sô và Trung Cộng nên sau đó Việt Nam đã bắt tay liên hệ với kẽ thù là đế quốc Mỹ năm 1995 và tiếp nhận nền kinh tế thị trường cởi mở theo tư bản.  Từ năm 2000 trở lên, nền kinh tế Việt Nam đã được chấp nhận trên sân chơi quốc tế và phát triễn trên phương diện kinh tế lẫn xã hội với những đầu tư đáng kễ từ các nước phương tây.  Những tiếp súc với bên ngoài về tài chánh, luật lệ, và ngành chuyên môn kỹ thuật với những tư tưỡng dân chủ đã làm thay đối tầm nhìn và triễn vọng của chẵng những của cấp lãnh đạo nhà cầm quyền Cộng sản, mà còn cho đa số người dân trong nước.
Từ đó, mức độ phát triễn kinh tế gia tăng và vượt lên đến 6.2 % trong năm 2008, hơn các quốc gia lân cận tại Đông Nam Á, với lợi tức đầu người $1,000 mổt năm.  Tuy vậy, những sự kèm kẹp về tư tưỡng và chương trình hoạt động của người dân vẫn bị Bộ Chánh Trị Hà Nôi kiễm soát chặt chẽ.  Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam cũng có nhiều tổ chức tập đoàn họ thành lập ra đễ “dân cao danh nghĩa dân chủ của dân, do dân và vì dân.” 
Hội đòan lớn nhưt là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hay Mặt Trận Dân


Tộc thống nhứt VN (Mặt Trận) đưa ra chánh sách cũng như liên minh và liên kết với các Câu lạc bộ được coi như là tổ chức XHDS.  Mặt trận cũng phê chuẫn các ứng cữ viên vào danh sách ứng cữ và đãm nhiệm luôn việc giám sát tất cã các cuộc bầu cữ. [12]  
Các tổ chức ngoại vi nầy đươc thành lập bỡi Bộ chánh trị nhà nước gòm đãng
viên Đãng cộng sãn VN.  44 thành viên XHDS của Mặt Trận là Đãng cộng sãn VN, Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đòan thanh niên cộng sản HCM, Hội liên hiệp phụ nữ VN, Hội cựu chiến binh, Liên hội khoa học kỹ thuật, Hội chữ thập đỏ, Phòng thương
mại và công nghiệp, Hội Phật Giáo, Ủy ban đoàn kết công giáo, Tổng hội thánh tin lành, Hội nhà báo, Hội liên lạc người VN ở nước ngoài, Hội luật gia cho đến Hội làm vườn.
Thành viên đứng đầu Mặt Trận là Đãng cộng sản có 3 triệu đãng viên, chiếm 3% dân số, chỉ thị cho các Câu lạc bộ hay tổ chức XHDS tuân theo đễ quãn trị họ.  Đặc biệt trong  Mặt Trận có Hội liên hiệp phụ nữ (VN Women’s Union), một tổ chức chánh trị gòm 1.5 triệu hội viên có nhiệm vụ phát triễn kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng gia đình  bảo vệ xã hội chủ nghĩa VN. 
Trang nhà của Hôi phụ nữ xác nhận là 70% hội viên được tuyên truyền, phổ biên về chủ trương của Đãng và 100% Chủ Tịch và Phó CT Hội đạt tiêu chuẫn chức danh cán bô, công chức theo quy định. Vậy thì các thành viên phải vào đãng CS mới trở thành công chức và được làm việc an toàn.  Họ phải tuân lệnh do đãng chĩ thị. Hội cũng đưa ra con số là 70% phụ nữ nghèo đươc Hội giúp xoá đói giãm nghèo.  Vậy tại sao cơ quan quốc tế  UNDP (Development Programme) đi ều tra và báo cáo là “nhóm 20% những người giàu nhất ở Việt nam hiện đang hưỡng tới 40% lợi ít từ các chính sách an sinh xã hội của nhà nước; trong khi nhóm 20% những người nghèo nhất chỉ nhận được 7% lợi ích từ nguồn nầy.” [13]    
 Như thế ta thấy rỏ là Đãng Cộng sản đứng ra tổ chức, điều động, bao trùm và lũng đoạn tât cã các sinh hoạt của lãnh vực XHDS chứ không có giới hạn trong phạm vi chánh quyền hay lãnh vực kinh tế mà thôi.  Do đó XHDS bị “chánh trị hóa”, bị cai trị chuyên chế, bị công lực và công quyền đàn áp và bị kiềm kẹp.  Quyền lực nằm trọn trong tay đãng tức là “đãng sự” chớ không phải trong tay của nhân dân tức “dân sự”.  Thật ra thì các XHDS như thế được gọi là GONGO (Government organized NGO) chớ không phải là NGO (non-government organization). 
Theo Điều 9 Hiến pháp (1992) quy định thì có đoạn như sau: “Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cữ và cán bộ, viên chức nhà nước.”  Những từ ngữ dân chủ mỹ miều nầy có được nhà nước áp dụng trung thực hay không"
Ngoài ra, ngày 26-3-2004, Trung ương đãng đã ban hành Nghi quyết 36 về “kế hoạch toàn diện nhằm vận động ba triệu người Việt ở nước ngoài “thành một bộ phận không thễ tách rời của cộng đồng dân tộc.”  Còn ở bên nhà thì nhà nước thẳng tay đàn áp những cá nhân hay tổ chức tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền.  Vậy thì lối thoát của sự bế tắc hiện nay như thế nào" [14]
GS Carl Thayer, nhà nghiên cứu về Việt nam thuộc Đại học New South Wales ở Sydney, Úc, trã lời phóng vấn của đài BBC tháng 8 năm 2008 như sau: “Ở Việt nam, những nhóm đang đòi hỏi có XHDS  tức đòi chính quyền phải thực thi chính luật pháp của mình, qua đó công nhận có quyền lập hội, tụ tập, biểu tình, tự do tôn giáo.  Những quyền nầy không được thực thi vì nhà chức trách luôn tìm lý do đễ ngăn cản thí dụ lý do gây rối an ninh trật tự đễ ngăn không cho biểu tình.”
 Ông nói tiếp:”Những nhóm dân sự này gia tăng về con số và bắt đầu liên kết thành
những mạng lưới. Như vậy mạng lưới đang ngày càng phát triễn và tôi nghĩ rồi sẽ đến lúc các nhóm riêng lẽ không những thành lập phong trào mà còn gây sức ép nhiều lần đễ nhà nước
thực thi luật pháp theo các tiêu chuẩn quốc tế mà Việt nam đã cam k ết.”  Ông Thayer kết
luận:”Có m ột điễm chung là những tiếng nói XHDS nầy được lắng nghe và tìm cách đưa vào trong guồng máy.  Kịch bản khả dĩ nhất theo tôi là cuối cùng họ sẽ được phép nắm giữ những ghế trong quốc hội.”
  Theo TS Hồ Bá Thâm thì “hiện nay có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc ở Việt nam và hơn 2,150 hội hoạt động trong phạm vi vi tính, thành phố trực thuộc Trung ương cùng có hàng ngàn hội ở các cơ sở.”  Ông viết tiếp: “Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẽo.  Trung bình mỗi người là thành viên của 2.33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0.39) và Singapore (0.86).  Theo khảo sát nầy, tỹ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73.5%, một tỹ lệ tương đối cao.” [15]
 Ngoài các hội hoạt động trong nước thì có những NGO đáng kễ của người Việt đãm trách từ nước ngoài về Việt nam đầu tư, kinh doanh, họp tác khoa học, hoạt động nghề nghiệp, định cư lâu dài và cứu trợ. Vai trò của những tổ chức cộng đồng hãi ngoại là một lực lượng có chất xám, có tài chánh dồi dào, có kỹ thuật cao độ, có kiến thức chuyên nghiệp, và có cã tấm lòng giúp cãi thiện đời sống gia đình, bà con và bạn bè tại quê nhà.
Trước tình cãnh tụt hậu ở Việt nam, ba triệu người Việt nam sống tại hãi ngoại được
gọi là “Việt Kiều yêu nước” là một nguồn tài trợ quan trọng gởi về cho gia đình bên Việt nam một cách chánh thức hay bán chánh thức một ngân khoãn gần 8 tỹ mỹ kim trong năm 2008. Ít nhất 50 phần trăm là phần đống góp của cộng đồng tại Hoa Kỳ. Hơn nữa, có lối bốn trăm ngàn người Việt đi du lịch đem tiền về Việt nam tiêu xài hay làm công tác từ thiện. [16]
 TS Nguyễn Quang A viết trong tờ Lao Động Cuối Tuần 2009: “XHDS đâu có đáng sợ.   Hơn hai mươi năm trở về truớc ít người dám nói đến cơ chế thị trường, đến khu vực kinh tế tư nhân: những điều cấm kỵ và đáng sợ.  Rồi người ta hiểu dần, chấp nhận và ngày nay chúng
không những không đáng sợ mà còn được coi trọng. Mười năm trước ít ai dám nói đến XHDS: điều cấm kỵ và đáng sợ.  XHDS đâu có đáng sợ mà rất có ít và cần được coi trọng.” [17]
 Ông viết tiếp: “Ranh giới giữa các tổ chức (nhà nước, XHDS, khu vực kinh tế) không hòan toàn rạch ròi, mà có thể có sự chồng lấn. Có những cơ quan nhà nước làm việc tắc trách, có các doanh nghiệp gian lân.  Cũng thế, có các tổ chức XHDS nói một đằng làm một nẻo. Phải có khung pháp lý đễ cho mọi loại tổ chức hoạt động, đễ buộc tất cã chúng phải minh bạch, phải có trách nhiệm giải trình với những người mà chúng được cho là đại diện, với những người cấp tài chính và với xã hội nói chung, đễ có cơ chế văn minh cho các tương tác, cho sự họp tác và giải quyết xung đột giữa chúng.  Nhìn vấn đề như thế thì XHDS đâu có đáng sợ mà là một
nhân tố quan trọng cho sự phát triễn của đất nước.”        
Đi ễn hình, GS Lê Xuân Khoa, nguyên Giám Đốc điều hành của cơ quan SEARAC, là người Việt tiên phong được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tài trợ những chương trình huấn luyện nghề nghiệp và giáo dục tại Viêt nam trong cuối thập niên 1990.  Năm 2004, ông đã tập hợp lại hơn ba mươi hội thiện nguyện tại Hoa kỳ gọi là Vietnamese American NGO hay VA-NGO và thành lập một mạng lưới các hội phi chánh phủ của người Mỹ gốc Việt. [18]
Họ chánh thức ghi danh với Ủy Ban Điều Phối Viện Trợ nhân dân (PACCOM) được nhà nước chánh thức công nhận giúp đỡ giãi quyết các vấn đề thủ tục hành chánh và pháp lý tại Việt nam.  Họ cũng nhận được sự tài trợ của các cơ quan Ford Foundation, Asia Foundation, USAID và các cộng đồng dòng chính cũng như cộng đồng người Mỹ gốc Việt.
Trong mạng lưới VA-NGO, Pacific Links do Cô Diệp Vương làm Chủ tịch là người đầu tiên đặc trụ sỡ tại Hậu Giang đễ day nghề cho các em gái và phụ nữ trong làng đễ ngăn ngừa họ bị dụ dổ qua biên giới Cao Miên làm nghề mại dâm.  Tuy vậy, có hơn 10,000 cô gái và 5,000 trẽ em Việt từ 7 tuổi trở lên đã là nạn nhân nạn buôn người ở xứ chùa tháp nầy rồi.
Đặc biệt hơn hết, trong năm 2000, TS Phùng Liên Đoàn, Chủ Tịch Quỷ Khuyến Khích Tự Lập, và phu nhân là Bà Đoàn Thu Lê, bỏ tiền túi $750,000 mỷ kim tài trợ một qủy cho vay tiểu thương (micro-loans) từ $150 đến $350 cho 7,400 gia đình tại nông thôn miền Trung đễ họ có  vốn làm ăn. Họ mượn tiền đễ chăn nuôi heo hay gà, hay mỡ tiệm bán gạo hay đồ dùng trước cữa nhà họ. [19]
Họ vay từ một đến hai năm và trã hàng tháng một chút tiền vốn lẫn mười phần trăm tiền lãi cho đến khi nào hết nợ, rồi số tiền đó được cho người khác vay.  Chương trình đạt 98 phần trăm kết qủa mỹ mãn cho nên Liên Hiệp Quốc (UN-Habitat) tặng bằng tưỡng thưỡng cho Hội Khuyến Khích Tự Lập như là một XHDS có “Sáng Kiến” (Innovation Award).  Sự hợp tác của cộng đồng hãi ngoại và người dân trong nước rất thuận lợi cho dân nghèo giúp họ phát triễn.  
 Ngoài việc viện trợ mổi năm một số tài chánh khổng lồ do các cá nhân cho gia đình mình đễ phụ họ làm ăn sinh sống và đễ nâng cao đời sống, thì cộng đồng hãi ngoại còn là một lực lượng “đối lập” đáng kễ.  Với sức mạnh lá phiếu của cộng đồng đối với chánh quyền và quốc hội trong các quốc gia họ đang cư ngụ, cộng đồng hãi ngoại có tiếng nói lớn mạnh và có thễ vận động thay đổi chánh sách của chánh quyền sỡ tại đối với Việt nam. 
 Một số người trong cộng đồng thì hô hào chống chế độ độc tài Cộng sản và đòi hỏi chuyễn hóa hay thay đổi chế độ.  Họ xuống đường biểu tình rầm rộ. Một số khác thì nghiên cứu (think tank) những chiến lược đễ diễn tiến đến dân chủ và phát triễn. Còn một số khác có khã năng vận động hành lang chánh quyền và quốc hội cũng như giới trí thức cộng đồng người Mỹ góc Á và các tòa Đại sứ các nước ASEAN.  Nếu đẫy mạnh nhiều hơn thì những cuộc vận động nầy có thễ thành công, nhứt là đang có sự tranh chấp chủ quyền lãnh hãi Biễn Đông đễ mong Việt nam thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc . 
 Tuy vậy, cộng đồng hãi ngoại còn nhận thấy có những trở ngại về tâm lý và chánh trị chưa được thông qua giữa cộng đồng hãi ngoại và nhà nước.  GS Khoa nói: “Họ trong chờ những lời nói và hành động hòa giải cụ thể của những người lãnh đao trong nước thay vì những lời kêu gọi xóa bỏ hận thù của kẽ thắng đối với người thua.”
 Ông nói tiếp “Nếu nhà nước cứ tiếp tục nghi ngờ và ngăn cấm sự hợp tác chính đáng và hòa bình của người Việt trong và ngoài nước thì sẽ không khỏi bị cộng đồng quốc tế lên án và sẽ không tránh khỏi sự chống đối quyết lìệt của các tầng lớp nhân dân có thễ đến bạo động.  Đến lúc nhu cầu chuyễn hóa chế độ độc tài sang dân chủ đễ đất nước có thễ tồn tại và phát triễn trong khung cảnh hội nhập toàn cầu.”       
             Trong lúc đãng CS và nhà nước làm chậm lại tiến trình dân chủ hóa đễ điều chỉnh có
lợi cho họ thì phe dân chủ và cộng đồng hãi ngoại thúc đẫy đễ tiến cho mau hơn. Ông Soros, một mạnh thường quân giàu có với tài sản $11 tỹ nhờ kinh doanh trên thị trường chứng khoán, đã dùng những biện pháp “xây dựng xã hội từng mãnh một” (piecemeal social engineering) đễ 
xây dựng Xã Hội Mỡ (open society) và phục hồi chế độ dân chủ ở các nước cựu Cộng sản tại Đông Âu. 
 Với tầm nhìn toàn cầu (global vision) và tinh thần cầu tiến, Ông đã chi $6 tỹ mỹ kim cho các dự án khắp thế giới như giúp phong trào Đoàn Kết tại Balan, nhóm hiến chương 77 tại Tiệp Khắc, nhà bác học đối kháng Liên Sô Andrei Sakkarov, giúp việc phổ biến thông tin tại những quốc gia trong khối Cộng sản, chương trình cho đài phát thanh tại Mông Cổ, hay c ứu trợ nạn nhân trong cuộc chiến ở Bosnia, và cuộc động đất ở Haiti. Ông cũng bỏ ra $15 triệu trong năm 2004 đễ hạ bệ Tổng Thống George Bush cha.    
Ông Soros được mệnh danh là nhân vật tiên phong của phong trào kiến tạo một Xã hội Mỡ trên quy mô toàn cầu và tiêu biểu như kiến trúc sư của XHDS Toàn cầu (an architect of the Global Civil Society) đang nổ lực phát động “Phong trào Xã hội Mới” (The New Social Movement).     
Mặt khác thì GS Đoàn Viết Hoạt có một lộ trình toàn diện đễ chuyễn hóa dân chủ, đặc biệt tại Việt nam: “Lộ trình dân chủ hóa có hai mục tiêu: 1) tạo môi trường và điếu kiện xã hội chín muồi cho việc ra đời XHDS ngay trong lòng xã hội hiện nay ở trong nước và vượt khỏi sự ngăn chặn của giới cầm quyền; 2) chuyễn hóa toàn diện xã hội không giới hạng trên mọi
lãnh vực hoạt động của người dân và đẩy mạnh cuộc vận động đòi dân chủ hóa chính quyền, nương vào sức mạnh của XHDS, vào tình trạng “không thễ không” do sức ép nội tại tạo ra.” [20] 
       Tóm lại, dù giới lãnh đạo Cộng sản có tìm cách kềm hãm, cản trở đến mấy đi nữa, thì tại Việt nam hiện nay, ý thức của người dân đã mổi ngày một lên cao.  Nhất là giới trẻ, họ tiếp thu được kinh nghiệm phát triễn của nhiều nơi trên thế giới, nên ta có thễ nhận ra là XHDS hiện đang có những tiềm lực phong phú vĩ đại.  Thời cơ rất thuận lợi đễ có thễ phát triễn mạnh mẽ hầu góp phần xây dựng được một thễ chế dân chủ, nhân bản và nhân ái, đáp ứng được với niềm mong ước chính đáng của toàn thễ gần 90 triệu đồng bào Việt nam thân yêu của chúng ta.  Đạt đến mục tiêu “từng miễn” hay “toàn diện” còn tùy thuộc ý dân và ý Trời trong một thời điễm chính muồi thuận lợi.               

Tài Liệu Tham Khảo cho bài Xã Hội Dân Sự (Jackie Bông)
Tĩnh Hội Hợp Mặt Dân Chủ, Hannover, Đức Quốc, ngày 10 đến 13 tháng 6, 2010

[1]   www.viet-studies.info/kinhte/tranhưuquang_xahoidansu.htm
[2]   Louis-Juste  Anil.2006. “La société civile hier et aujourd’hui”, in Alter Presse, 12-1-
       2006, www.aterpresse.org.
[3]   “What is civil society"”. Centre for Civil Society, London School of Economics (1
        tháng 3 năm 2004). Truy cập 30 tháng 10 năm 2006.
[4]    Global Civil Society (PCDF) www.pcdf.org/civilsociety/default.htm
[5]    http://en.wikipedia.org/wiki/non-governmental_organization
[6]    www.aarp.org/
[7]    http:// foundationcenter.org/
[8]    Đòan Thanh Liêm. http://haydanhthoigian.wordpress.com. 1/7/2010
[9]    UN Relations with Civil Society (NGOs)
        http://www.un.org/issues/ngo/ngoindex.html
[10]  Florini Ann.The Third Force: The Rise of Transnational Civil Society. Carnegie
        Endownment for the Peace and Japan Center, 2001
[11]  www.state.gov/secretary/rm/2010/05/14288.htm
[12]  www.mattran.org.vn/home/tinhoatdong/tinhoatdong.htm
[13]  www.hoilhpn.org.vn/newsdetail.asp" Catld=2&newsld=5&lang=vn
[14]  www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080830_lnvcarlthayer.html
[15]  Ts.Hồ Bá Thâm - Viện Nghiên Cứu Phát Triễn tp.hcm, Xã Hội Dân Sự, Đặc thù và
        Vấn Đề ở Việtnam (I&underline)
[16]  http:// Diaspora Journey: Vietnam: remittances from Abroad
[17]  http://www.laodong.com,vn/Home/Xa-hoi-dan-su-dau-co-dang-
        so/20094/133512.laodong
[18]  www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp"a=37114&z=85december 16,
        2005
[19]  www.fesr.org
[20]  http://www. Vdlc.org/mode/81  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đặc biệt, trong buổi nói chuyện, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh đã trình bày về ngữ học Việt Nam với tính đối kháng quan quân Trung Hoa.
Nếu TPP có mệnh hệ nào, đó là điềm chẳng lành cho Chiến lược Xoay Trục của Mỹ .
Đối với Chị Quỳnh Giao, tôi thuộc hàng tiểu bối. Những năm trước 1975, khi chị đã là một ca sĩ thành danh,
Một hội-nghị của cựu-chiến-binh Mỹ đã từng chiến-đấu ở Việt-nam đi tìm “sự thật qua các sự-kiện” (“Vietnam Veterans for Factual History”)
truyền giáo của GP Kontum cho người sắc tộc rất thành công. Mỗi năm nhiều ngàn tân tòng người sắc tộc biết Chúa, tin Chúa, và nhận lãnh bí tích rửa tội.
...cho biết 290.000 di dân mới, trong đó có 52.000 trẻ em vị thành niên, đã được tái định cư...
Mục đích chánh cũa tôi đến Nhật lần này là leo lên đỉnh núi Fuji để giương cờ Vàng, cho nên tôi phải tận dụng mọi thời gian đầu của holiday.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường có khuynh hướng hay phán xét, khen, chê, phê bình hoặc chỉ trích người khác. Vậy có khi nào mình tự xét lại mình hay không?
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh.
Một xã hội không thực thi nhân quyền, nghĩa là các quyền cơ bản của người dân không được tôn trọng hà tất chưa thể nói đến xã hội dân sự!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.