Nhà thơ cảm nhận về thiên nhiên khác với người bình thường.. Nhà thơ không nhìn mặt trời như người nông dân, như người thủy thủ, như người công nhân … Mặc dù ai cũng có năm giác quan tiếp nhận ngoại cảnh và ý thức tiếp nhận hình ảnh ký ức, nhưng trí tưởng tượng của nhà thơ phong phú hơn, thường biến ngoại cảnh theo xúc cảm sâu xa thành một thế giới nửa mộng nửa thực với sự sử dụng ngôn ngữ khéo léo.
Mặt trời, mặt trăng, tiếng chim hót ngoài vườn, mùi hoa lan ngào ngạt, làn gió lạnh hay man mát, vị chua của một trái chanh, hình ảnh một thiếu nữ, một hài nhi đối với nhà thơ đều hiện ra như một tượng trưng cho một ý tưởng, một cảm tình, còn đối với người bình thường chỉ có ý nghĩa thực dụng.
Thí dụ, đối với người thợ săn, con nai là một con mồi sẵn sàng nhận một mũi tên, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư nhìn con nai như một trẻ thơ hồn nhiên.
Em không nghe rừng thu
Lá thu nghe xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Dạp trên lá vàng khô
Đối với người nông dân, mưa có ích để mùa màng tươi tốt, nhưng với nhà thơ thì “trời mưa, cơn mưa” tượng trưng cho một nỗi buồn “Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ, dài tay em ấy thuở mắt xanh xao” hay là “Chiều này còn mưa sao em không lại? nhớ mãi trong cơn đau vùi… Đối với người thủy thủ, biển là phương tiện cho tàu di chuyển, nhưng nhà thơ lại biến biển thành tượng trưng cho một nỗi buồn vô biên vô tận “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về, triều sương ướt đẫm cơn mê”..(Trịnh Công Sơn )
Đối với nhà khoa học không gian, mặt trăng là một đối tượng chinh phục cho phi thuyền phóng lên nghiên cứu, nhưng với nhà thơ, mặt trăng muôn đời vẫn tượng trưng cho một cái gì đẹp mơ hồ nhưng trong trắng trinh nguyên, như thi sĩ Tản Đà viết “Đêm nay dẹp lắm chị Hằng ơi, trần thế em nay chán nửa rồi”, hay như thi sĩ Huy Cận “ Vầng trăng từ thuở lên ngôi, năm năm tháng tháng em ngồi quay tơ, em ngồi quay tơ”.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ chập chờn giữa mộng và thực. Nhưng thường thì thơ đời diễn tả những tình cảm buồn gây ra do những cành đời chia ly, ngang trái vô thường làm tan nát những mộng tưởng vàng son, nhất là trong tình trường. Nhửng đổ vỡ trong tình yêu nam nữ thường là đề tài vô tận của thi ca.
Như thi sĩ Tản Đà viết “Trận gió thu phong rụng lá vàng---Lá bên hàng xóm lá bay sang---Vàng bay mấy lá năm già nửa----Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng” Như thi sĩ Hàn Mặc Tử viết “người đi một nửa hồn tôi chết--- một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. Hay như thi sĩ Đinh Hùng “Trời cuối thu rồi em ở đâu--- Nằm trong đáy mộ chắc em sầu”. Thi sĩ Nguyễn Đình Toàn: “Ngày thần tiên em bước lên ngồi, đã nghe son vàng tả tơi “.. “Thân tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần, thành tình nhân đứng giữa trời không, khóc mộng thiên đường…”
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ tượng trưng, nhưng thơ đời thường khác với thơ thiền ở chỗ những hình ảnh tượng trưng trong thơ thiền mang ý nghĩa cao cả vượt lên trên những tình cảm trần thế.
Thí dụ, từ “EM trong thơ đời thường dùng để chỉ một người nữ yêu dấu của một người nam, hay để chỉ một người dễ mến,ít tuổi hơn, nhưng trong thơ Sơn Cư ta thấy xuất hiện nhiều lần chữ “EM” mà được dùng để tượng trưng cho một ý tưởng hay một khái niệm cao xa, thâm sâu nhưng không ở ngoài hay ở trên mình, mà thân thiết ở ngay trong mình.
Hãy đọc bài thơ “Người đã đến”
Em đã đến, từ lâu em đã đến
Dáng hình xưa, như vẫn dáng hình xưa
Đôi mắt Em. đẹp hơn làn thu thủy
Ánh trăng đầy trên những chuyến thuyền không
Chữ “EM” tượng trưng cho Phật Tánh hay Tánh Giác vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh từ muôn thuở, nhưng cuộc đời lưu chuyển đã làm chúng sinh xa dần bản lai diện mục của mình. “Nước tràn về loài thủy ngư mở hội” tượng trưng cho dòng đời truân chuyên đầy khổ đau. “Ánh trăng” tượng trưng Chân Tâm sáng ngời nhưng bị che mờ bởi dục vọng, chỉ tròn dầy khi tâm không còn vướng mắc vào trần lao.
Chỉ trong những phút giây hiếm hoi trong đời tỉnh thức đưa chúng sinh gặp lại Tánh Giác nguyên thủy. Giữa Tánh Giác uyên nguyên và ý thức đời thường vẫn có một dòng sông, một cây câu ngăn cách
Mẹ về bên ấy Em ngồi bến cũ
Bến cũ ngàn xưa vẫn một nhịp cầu
Em và tôi còn đôi khi gặp gỡ
Giang đầu cuối xóm chỉ một bờ đê
“Bờ đê”, “nhịp cầu” tượng trưng một ngăn trở, một chướng ngại khiến tâm chúng sinh không trở về được Bổn Tánh của mình. Cái chân tâm, tánh giác sáng ngời từ nguyên thủy chẳng bao giờ tan rã mặc cho bao hình tướng cứ sinh trụ hoại diệt
Bản thân Em hằng hữu và bất sinh
Trong bài thơ “Liên Trì Cảnh Bụt”, ao sen có thực ở Tu Viện Liên Trì tiểu bang Alabama lại là một tượng trưng cho ao sen trên cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Dà.
Bước chân lên cảnh Liên Trì
Đi trên thật địa dây rồi quê xưa
“Quê xưa” chẳng phải là quê nhà ở Quảng Trị, ở Nha Trang, ở Cần Thơ mà là Chân Tâm thường trụ an lạc ngoài mọi khỏ đau của đời người.
Hồ tâm lặng chiếu trăng ngàn
Mặt hồ tượng trưng cõi tâm, “trăng ngàn” tượng trưng ánh sáng của Tuệ giác, tâm yên tĩnh lặng lẽ không xao động thì Phật tánh mới hiển lộ.
Tam thân xuống cõi đời này
Lô nhô mặt đất nụ đầy thơm hương
Bồ Tát Quán thế Âm với ngàn mắt ngàn tay tượng trưng lực thần thông nhỉn thấy mọi cảnh đời, đưa tay cứu vớt cùng lúc mọi cảnh đời. Những nụ hoa nở khắp mặt đất tượng trưng những hóa thân của Như Lai đem sức sống cho vạn vật.
Dưới ao cá lặn nghe lời kinh thiêng
Cá mà nghe kinh? Đâu phải nghe bằng tai, mà kinh đâu phải tụng bằng lời của cõi nhân gian? Đó là hình ảnh tượng trưng cho Phật tánh hiển lộ ở khắp mọi nơi cho khắp mọi loài chúng sinh.
Vô thường chiếc bóng câu qua
Bóng câu là bóng ngựa vút qua, tượng trưng cho cảnh đời mau sinh mau diệt, chỉ có Tính Giác, Như Lai là mãi mãi không sinh không diệt.
Bài thơ “Bát Nhã Thuyền Không” cũng có nhiều hình ảnh tượng trưng sâu sắc.
Thuyền Bát Nhã qua miền nắng dậy
Trăng lên cao rõi mấy từng không
Anh về bến, chờ Em về với
Trễ chuyến thôi, trễ cả mấy đời
Trí bát Nhã như được nói trong Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh “Quán tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, được tượng trưng bằng con thuyền chở chúng sinh đến bờ giác ngộ để diệt mọi khổ đau. “Miền nắng dậy” tượng trưng cho tâm trí trong sáng sạch hết mây mù của lòng tham đắm, giận hờn ngu muội. “Trăng lên cao” tượng trưng chân tâm sáng ngời. “Anh” và “Em” tượng trưng huynh đệ pháp hữu dắt dìu nhau vào đường giác ngộ.
Nhưng dục vọng tràn đầy trong ta như đám sương mù che mặt trời ban mai khiến cho chúng sinh khó lòng thấy được ánh sáng chân tâm, vi thế bánh xe luân hồi sinh tử cứ xoay chuyển vô tận.
Thuyền Bát Nhã, thuyền khách hiếm đợi
Một đôi khi duyên gặp một lẩn
Có khi suốt đời không gặp được
Biết ai cùng để hẹn mai sau
Tính Giác ví như người cha giầu có, còn ý thức giống như đứa con bỏ nhà ra đi lang thang nghèo khổ. Cha nhận ra con trong hình dáng tiều tụy rách rưới nhưng con chẳng hề nhận ra ông trưởng giả giàu có là cha mình nên sợ hãi chạy trốn.
Cha vẫn nhớ con mà con thì cứ hững hờ
Em về bên ấy ngời duyên dáng
Người tình thuở ấy đang đợi chờ
Nhưng muốn về với “Em”,với Phật tánh quang minh mênh mông thì phải tu luyện Trí Bát Nhã
Thuyền Bát Nhã đường về bến giác
Xa niềm đau nỗi khổ tình mê
………….
Thuyền Bát Nhã sẵn chờ đợi bến
Lên đi thôi, chớ có chùn chân
Lên đi, mau, chớ có chậm chờ
Bài thơ “Sương” chứa đựng nhiều hình ảnh tượng trưng rất thâm sâu. Hãy đọc toàn bài một lượt:
Sương qua ngõ vắng cánh buồm lượn
Sương xuống bờ vai gọi mênh mông
Ta ngỡ chìm trong ven bọt biển
Một vực thăm thẳm, một trời không
Sương dậy trên ngàn rung phổ độ
Cánh vạc cất cao mộng hải hồ
Ta ngỡ dăm ba thuyền xuôi ngược
Hóa ra cát bụi tẩm cơ đổ
Sương xuống đầu làng bươm bướm ngủ
Ngọt lịm chung tình tiếng mẹ ru
Tơ tưởng thiên thần về bến hẹn
Mờ ảo vẩng trăng nước ao tù
Sương lảng vảng bay trên hè phố
Trần mình trơ trụi ngọn thu phong
Ta nghe buốt lạnh từ xương tủy
Những sợi tơ mành, những mong manh
Những liên tưởng trong từng câu thơ rất lạ lùng. Thi dụ ngay câu đầu. Hình ảnh “sương qua ngõ vắng” lại móc ngay với hình ảnh “ cánh buồm lộng”. Cánh buốm lộng gió làm liên tưởng đến biển cả bao la với sức gió mạnh mẽ làm căng buồm, làm sao lại liên kết với “sương trong ngõ vắng” ?
Phải chăng màn sương che mờ con ngõ vắng lan tỏa khắp một vùng khiên cho đất trời bị che lấp gây ảo giác về một mặt biển mênh mông không bờ bến? Nhà thơ ở vào một tâm cảnh cô đơn bé nhỏ sợ hãi trước cái mênh mông không bờ bến đó. Giống như từ trên đỉnh núi cao ngã xuống chỉ thấy vực thẳm hun hút không chỗ bám víu.
Ta ngỡ chìm trong ven bọt biển
Một vực thăm thẳm mợt trời không
Toàn bài thơ toát ra cái tâm tình heo hút, không nơi nương tựa, muốn tìm được chỗ bám viu là Phật Tánh thường trụ mà chỉ thấy
Tơ tưởng thiên thần về bến hẹn
Mờ ảo vầng trăng nước ao tù
Rừng vọng tưởng, sương khái niệm che kín lối về giống như bóng trăng trong ao tù là cái tâm chúng sinh đầy phiền não vướng mắc cảnh đời.
Quán chiếu tâm cảnh minh như thế, nhà thơ bỗng thấy sợ hãi
Ta nghe buốt lạnh từ xương tủy
Những sợi tơ mành, những mong manh
Tỉnh thức về cái mong manh của cảnh đời để kịp quay về Tính giác Kim Cương vững bền thường trụ.
Đào Ngọc Phong
Westminster, Ca May 12, 2015
Mặt trời, mặt trăng, tiếng chim hót ngoài vườn, mùi hoa lan ngào ngạt, làn gió lạnh hay man mát, vị chua của một trái chanh, hình ảnh một thiếu nữ, một hài nhi đối với nhà thơ đều hiện ra như một tượng trưng cho một ý tưởng, một cảm tình, còn đối với người bình thường chỉ có ý nghĩa thực dụng.
Thí dụ, đối với người thợ săn, con nai là một con mồi sẵn sàng nhận một mũi tên, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư nhìn con nai như một trẻ thơ hồn nhiên.
Em không nghe rừng thu
Lá thu nghe xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Dạp trên lá vàng khô
Đối với người nông dân, mưa có ích để mùa màng tươi tốt, nhưng với nhà thơ thì “trời mưa, cơn mưa” tượng trưng cho một nỗi buồn “Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ, dài tay em ấy thuở mắt xanh xao” hay là “Chiều này còn mưa sao em không lại? nhớ mãi trong cơn đau vùi… Đối với người thủy thủ, biển là phương tiện cho tàu di chuyển, nhưng nhà thơ lại biến biển thành tượng trưng cho một nỗi buồn vô biên vô tận “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về, triều sương ướt đẫm cơn mê”..(Trịnh Công Sơn )
Đối với nhà khoa học không gian, mặt trăng là một đối tượng chinh phục cho phi thuyền phóng lên nghiên cứu, nhưng với nhà thơ, mặt trăng muôn đời vẫn tượng trưng cho một cái gì đẹp mơ hồ nhưng trong trắng trinh nguyên, như thi sĩ Tản Đà viết “Đêm nay dẹp lắm chị Hằng ơi, trần thế em nay chán nửa rồi”, hay như thi sĩ Huy Cận “ Vầng trăng từ thuở lên ngôi, năm năm tháng tháng em ngồi quay tơ, em ngồi quay tơ”.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ chập chờn giữa mộng và thực. Nhưng thường thì thơ đời diễn tả những tình cảm buồn gây ra do những cành đời chia ly, ngang trái vô thường làm tan nát những mộng tưởng vàng son, nhất là trong tình trường. Nhửng đổ vỡ trong tình yêu nam nữ thường là đề tài vô tận của thi ca.
Như thi sĩ Tản Đà viết “Trận gió thu phong rụng lá vàng---Lá bên hàng xóm lá bay sang---Vàng bay mấy lá năm già nửa----Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng” Như thi sĩ Hàn Mặc Tử viết “người đi một nửa hồn tôi chết--- một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. Hay như thi sĩ Đinh Hùng “Trời cuối thu rồi em ở đâu--- Nằm trong đáy mộ chắc em sầu”. Thi sĩ Nguyễn Đình Toàn: “Ngày thần tiên em bước lên ngồi, đã nghe son vàng tả tơi “.. “Thân tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần, thành tình nhân đứng giữa trời không, khóc mộng thiên đường…”
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ tượng trưng, nhưng thơ đời thường khác với thơ thiền ở chỗ những hình ảnh tượng trưng trong thơ thiền mang ý nghĩa cao cả vượt lên trên những tình cảm trần thế.
Thí dụ, từ “EM trong thơ đời thường dùng để chỉ một người nữ yêu dấu của một người nam, hay để chỉ một người dễ mến,ít tuổi hơn, nhưng trong thơ Sơn Cư ta thấy xuất hiện nhiều lần chữ “EM” mà được dùng để tượng trưng cho một ý tưởng hay một khái niệm cao xa, thâm sâu nhưng không ở ngoài hay ở trên mình, mà thân thiết ở ngay trong mình.
Hãy đọc bài thơ “Người đã đến”
Em đã đến, từ lâu em đã đến
Dáng hình xưa, như vẫn dáng hình xưa
Đôi mắt Em. đẹp hơn làn thu thủy
Ánh trăng đầy trên những chuyến thuyền không
Chữ “EM” tượng trưng cho Phật Tánh hay Tánh Giác vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh từ muôn thuở, nhưng cuộc đời lưu chuyển đã làm chúng sinh xa dần bản lai diện mục của mình. “Nước tràn về loài thủy ngư mở hội” tượng trưng cho dòng đời truân chuyên đầy khổ đau. “Ánh trăng” tượng trưng Chân Tâm sáng ngời nhưng bị che mờ bởi dục vọng, chỉ tròn dầy khi tâm không còn vướng mắc vào trần lao.
Chỉ trong những phút giây hiếm hoi trong đời tỉnh thức đưa chúng sinh gặp lại Tánh Giác nguyên thủy. Giữa Tánh Giác uyên nguyên và ý thức đời thường vẫn có một dòng sông, một cây câu ngăn cách
Mẹ về bên ấy Em ngồi bến cũ
Bến cũ ngàn xưa vẫn một nhịp cầu
Em và tôi còn đôi khi gặp gỡ
Giang đầu cuối xóm chỉ một bờ đê
“Bờ đê”, “nhịp cầu” tượng trưng một ngăn trở, một chướng ngại khiến tâm chúng sinh không trở về được Bổn Tánh của mình. Cái chân tâm, tánh giác sáng ngời từ nguyên thủy chẳng bao giờ tan rã mặc cho bao hình tướng cứ sinh trụ hoại diệt
Bản thân Em hằng hữu và bất sinh
Trong bài thơ “Liên Trì Cảnh Bụt”, ao sen có thực ở Tu Viện Liên Trì tiểu bang Alabama lại là một tượng trưng cho ao sen trên cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Dà.
Bước chân lên cảnh Liên Trì
Đi trên thật địa dây rồi quê xưa
“Quê xưa” chẳng phải là quê nhà ở Quảng Trị, ở Nha Trang, ở Cần Thơ mà là Chân Tâm thường trụ an lạc ngoài mọi khỏ đau của đời người.
Hồ tâm lặng chiếu trăng ngàn
Mặt hồ tượng trưng cõi tâm, “trăng ngàn” tượng trưng ánh sáng của Tuệ giác, tâm yên tĩnh lặng lẽ không xao động thì Phật tánh mới hiển lộ.
Tam thân xuống cõi đời này
Lô nhô mặt đất nụ đầy thơm hương
Bồ Tát Quán thế Âm với ngàn mắt ngàn tay tượng trưng lực thần thông nhỉn thấy mọi cảnh đời, đưa tay cứu vớt cùng lúc mọi cảnh đời. Những nụ hoa nở khắp mặt đất tượng trưng những hóa thân của Như Lai đem sức sống cho vạn vật.
Dưới ao cá lặn nghe lời kinh thiêng
Cá mà nghe kinh? Đâu phải nghe bằng tai, mà kinh đâu phải tụng bằng lời của cõi nhân gian? Đó là hình ảnh tượng trưng cho Phật tánh hiển lộ ở khắp mọi nơi cho khắp mọi loài chúng sinh.
Vô thường chiếc bóng câu qua
Bóng câu là bóng ngựa vút qua, tượng trưng cho cảnh đời mau sinh mau diệt, chỉ có Tính Giác, Như Lai là mãi mãi không sinh không diệt.
Bài thơ “Bát Nhã Thuyền Không” cũng có nhiều hình ảnh tượng trưng sâu sắc.
Thuyền Bát Nhã qua miền nắng dậy
Trăng lên cao rõi mấy từng không
Anh về bến, chờ Em về với
Trễ chuyến thôi, trễ cả mấy đời
Trí bát Nhã như được nói trong Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh “Quán tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, được tượng trưng bằng con thuyền chở chúng sinh đến bờ giác ngộ để diệt mọi khổ đau. “Miền nắng dậy” tượng trưng cho tâm trí trong sáng sạch hết mây mù của lòng tham đắm, giận hờn ngu muội. “Trăng lên cao” tượng trưng chân tâm sáng ngời. “Anh” và “Em” tượng trưng huynh đệ pháp hữu dắt dìu nhau vào đường giác ngộ.
Nhưng dục vọng tràn đầy trong ta như đám sương mù che mặt trời ban mai khiến cho chúng sinh khó lòng thấy được ánh sáng chân tâm, vi thế bánh xe luân hồi sinh tử cứ xoay chuyển vô tận.
Thuyền Bát Nhã, thuyền khách hiếm đợi
Một đôi khi duyên gặp một lẩn
Có khi suốt đời không gặp được
Biết ai cùng để hẹn mai sau
Tính Giác ví như người cha giầu có, còn ý thức giống như đứa con bỏ nhà ra đi lang thang nghèo khổ. Cha nhận ra con trong hình dáng tiều tụy rách rưới nhưng con chẳng hề nhận ra ông trưởng giả giàu có là cha mình nên sợ hãi chạy trốn.
Cha vẫn nhớ con mà con thì cứ hững hờ
Em về bên ấy ngời duyên dáng
Người tình thuở ấy đang đợi chờ
Nhưng muốn về với “Em”,với Phật tánh quang minh mênh mông thì phải tu luyện Trí Bát Nhã
Thuyền Bát Nhã đường về bến giác
Xa niềm đau nỗi khổ tình mê
………….
Thuyền Bát Nhã sẵn chờ đợi bến
Lên đi thôi, chớ có chùn chân
Lên đi, mau, chớ có chậm chờ
Bài thơ “Sương” chứa đựng nhiều hình ảnh tượng trưng rất thâm sâu. Hãy đọc toàn bài một lượt:
Sương qua ngõ vắng cánh buồm lượn
Sương xuống bờ vai gọi mênh mông
Ta ngỡ chìm trong ven bọt biển
Một vực thăm thẳm, một trời không
Sương dậy trên ngàn rung phổ độ
Cánh vạc cất cao mộng hải hồ
Ta ngỡ dăm ba thuyền xuôi ngược
Hóa ra cát bụi tẩm cơ đổ
Sương xuống đầu làng bươm bướm ngủ
Ngọt lịm chung tình tiếng mẹ ru
Tơ tưởng thiên thần về bến hẹn
Mờ ảo vẩng trăng nước ao tù
Sương lảng vảng bay trên hè phố
Trần mình trơ trụi ngọn thu phong
Ta nghe buốt lạnh từ xương tủy
Những sợi tơ mành, những mong manh
Những liên tưởng trong từng câu thơ rất lạ lùng. Thi dụ ngay câu đầu. Hình ảnh “sương qua ngõ vắng” lại móc ngay với hình ảnh “ cánh buồm lộng”. Cánh buốm lộng gió làm liên tưởng đến biển cả bao la với sức gió mạnh mẽ làm căng buồm, làm sao lại liên kết với “sương trong ngõ vắng” ?
Phải chăng màn sương che mờ con ngõ vắng lan tỏa khắp một vùng khiên cho đất trời bị che lấp gây ảo giác về một mặt biển mênh mông không bờ bến? Nhà thơ ở vào một tâm cảnh cô đơn bé nhỏ sợ hãi trước cái mênh mông không bờ bến đó. Giống như từ trên đỉnh núi cao ngã xuống chỉ thấy vực thẳm hun hút không chỗ bám víu.
Ta ngỡ chìm trong ven bọt biển
Một vực thăm thẳm mợt trời không
Toàn bài thơ toát ra cái tâm tình heo hút, không nơi nương tựa, muốn tìm được chỗ bám viu là Phật Tánh thường trụ mà chỉ thấy
Tơ tưởng thiên thần về bến hẹn
Mờ ảo vầng trăng nước ao tù
Rừng vọng tưởng, sương khái niệm che kín lối về giống như bóng trăng trong ao tù là cái tâm chúng sinh đầy phiền não vướng mắc cảnh đời.
Quán chiếu tâm cảnh minh như thế, nhà thơ bỗng thấy sợ hãi
Ta nghe buốt lạnh từ xương tủy
Những sợi tơ mành, những mong manh
Tỉnh thức về cái mong manh của cảnh đời để kịp quay về Tính giác Kim Cương vững bền thường trụ.
Đào Ngọc Phong
Westminster, Ca May 12, 2015
Thiền Sư Sơn Cư( HT Tinh Từ) là một thí dụ, Thiềnviện Kim Sơn được HT xây dựng ờ cành núi đồi hùng vĩ đầy thơ mộng nên hồn thơ của xứ Huế đã khơi dậy nên Thiền Sư Sơn Cư đã cho chúng ta những tuỵêt tác để Phật tử hải ngoại phát tâm tu hành, nhất là nhóm Sợi Nắng...Cám ơn Phong Đào đã tích dẫn những vần thơ nổi tiếng trong Văn đàn và Âm nhạc,mong tác giả viết thêm nửa... để đoc giả của Việt Báo đươc thưởng thức...
cảm nhận của Thơ Thiền, nhưng có một góp ý cho vui với tác giả: chữ "EM" trong thơ Thiền đôi lúc cũng nửa Đời nửa Đạo vì mượn thơ để nhắn gởi hoặc giải tỏa một nổi niềm trong tiềm thức chưa XẢ BỎ được ! ? "XA THU, XA THU"